USDA điều chỉnh dự báo xuất khẩu gạo Thái Lan
năm 2018 lên 10,8 triệu tấn do xuất khẩu gạo trắng cao hơn dự báo trước đó
USDA điều chỉnh dự báo xuất khẩu gạo Thái Lan
năm 2018 lên 10,8 triệu tấn do xuất khẩu gạo trắng cao hơn dự báo trước đóXuất
khẩu gạo Thái Lan dự báo đạt 10,8 triệu tấn
USDA điều chỉnh dự báo xuất khẩu gạo Thái Lan
năm 2018 lên 10,8 triệu tấn do xuất khẩu gạo trắng cao hơn dự báo trước đó. Tuy
nhiên, kim ngạch xuất khẩu này vẫn thấp hơn 7% so với năm 2017 do giảm xuất
khẩu gạo thơm và gạo đồ. Theo Cơ quan Hải quan Thái Lan, trong 10 tháng đầu năm
2018, xuất khẩu gạo của nước này đạt 9 triệu tấn, tăng gần 1% so với cùng kỳ
năm 2017. Xuất khẩu gạo trắng đạt xấp xỉ 5,2 triệu tấn, tăng 16% trong cùng kỳ
so sánh do giá gạo trắng Thái Lan cạnh tranh hơn giá gạo Việt Nam, đặc biệt là
trong phân khúc xuất khẩu gạo trắng chất lượng trung bình thấp sang thị trường
châu Phi. Giá gạo trắng 5% tấm Thái Lan thấp hơn giá gạo trắng Việt Nam tới 20
-30% trong vài tháng qua kể từ tháng 6/2018, một phần do việc bán phần gạo chất
lượng thấp còn lại trong kho dự trữ gạo chính phủ vào quý 3/2018. Trong khi đó,
xuất khẩu gạo thơm và gạo đồ giảm lần lượt 17% và 13% so với cùng kỳ năm 2017
do nguồn cung khả dụng xuất khẩu giảm sau khi dự trữ gạo thơm và gạo trắng chất
lượng đủ làm thực phẩm của chính phủ không còn.
Bulog nhập khẩu 1,8 triệu tấn gạo trong năm
2018
BULOG đặt mục tiêu thu mua 2,7 triệu tấn gạo
trong năm 2017/18. Trung bình 60% mục tiêu thu mua sẽ được hoàn thành trong
tháng 6 hàng năm. Tuy nhiên, trong suốt năm 2018, Bulog gặp hàng loạt khó khăn
trong thu mua lúa gạo nội địa do giá lúa khô, lúa ướt ở mức cao và mức giá sàn thu
mua được đặt ra. Để đáp ứng nhu cầu nội địa, chính phủ đã ủy quyền cho Bulog
nhập khẩu 1,8 triệu tấn gạo tính đến tháng 9/2018 và dự kiến sẽ không nhập khẩu
gạo thêm trong năm nay. Tính đến ngày 29/10/2018, tổng lượng gạo Bulog đã thu
mua là 2,9 triệu tấn. Lượng thu mua cao hơn mục tiêu và tồn kho gạo ở mức cao
dẫn đến quyết định của Bulog sẽ phân bổ gạo cho người nghèo ngay 3 tháng, tức
là gạo phân bổ cho tháng 9, 10, 11/2018 sẽ được phân bổ ngay trong tháng 9.
Anh: Nhu cầu
nhập khẩu tôm từ Việt Nam vẫn ổn định
Xuất khẩu tôm Việt Nam sang Anh có xu hướng ngày càng tăng do Anh
đẩy mạnh NK tôm nước ấm nhờ giá phải chăng để thay thế cho tôm nước lạnh. Giá
tôm nước lạnh ngày càng tăng do các nước khai thác chính liên tục cắt giảm hạn
ngạch khiến sản lượng sụt giảm. Doanh số bán tôm nước ấm trong các siêu thị và
các kênh bán lẻ của Anh liên tục tăng trong khi doanh số tôm nước lạnh giảm.
Giá trị và khối lượng các sản phẩm tôm nước ấm được bán lẻ tại Anh cho tiêu thụ
hộ gia đình tăng liên tục trong 3 năm vừa qua. Doanh số bán tôm trong 52 tuần
kết thúc vào 6/10/2018 đạt 31.418 tấn, trị giá 446,4 triệu bảng Anh (tương
đương 571,6 triệu USD).
Anh
là nước NK tôm lớn thứ 3 trong khối EU sau Tây Ban Nha và Pháp. Khác với Tây
Ban Nha (NK tôm vừa để tiêu thụ trong nước vừa để chế biến XK sang các nước nội
khối), Anh NK tôm chủ yếu để tiêu thụ trong nước. Trong 4 năm trở lại đây, Anh
là thị trường đáng chú ý của nhiều DN XK tôm Việt Nam.
Trong
khối EU, Anh đang là thị trường NK tôm lớn nhất của Việt Nam, chiếm gần 36%
tổng XK tôm của Việt Nam sang EU và chiếm 6,8% tổng XK tôm Việt Nam đi tất cả
các thị trường. Năm 2017, XK tôm Việt Nam sang Anh đạt 210,6 triệu USD, tăng
55,5% so với năm 2016. Lũy kế tới 15/11/2018, XK tôm Việt Nam sang Anh đạt
212,1 triệu USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Từ
năm 2014 đến nay, Anh luôn ở vị trí thứ 1 và 2 về NK tôm của Việt Nam. Từ 2014
đến 2017, XK tôm Việt Nam sang Anh tăng trưởng liên tục từ 114,6 triệu USD năm
2014 lên 210,6 triệu USD năm 2017, tăng gần 84%. Tính tới 15/11 năm nay, XK tôm
Việt Nam sang Anh đã đạt 212,1 triệu USD, cao hơn giá trị XK tôm Việt Nam sang
Anh của cả năm 2017 (212,1 triệu USD).
Trong
10 tháng đầu năm 2018, XK tôm Việt Nam sang Anh giảm trong tháng 5 và tháng 10
nên mặc dù vẫn tăng trưởng dương nhưng tốc độ tăng trưởng không cao như năm
ngoái.
Chín
tháng đầu năm nay, NK tôm của Anh đạt 588,8 triệu USD, giảm 3% so với cùng kỳ
năm 2017. Việt Nam là nguồn cung tôm lớn nhất cho Anh, chiếm 26,3% tổng giá trị
NK tôm của Anh. Ấn Độ đứng thứ hai chiếm 15,5%. Trong số các nguồn cung tôm
chính cho thị trường này, NK tôm của Anh từ Việt Nam, Đan Mạch, Iceland tăng
lần lượt 36%, 17%, 32% trong khi NK từ Ấn Độ, Canada, Bangladesh giảm lần lượt
15%, 13%, 42%.
Có
thể nói, Anh là một thị trường đáng lưu tâm của DN XK tôm Việt Nam trong khối
EU vì DN XK sang thị trường này được hưởng ưu đãi về thuế GSP giống như quy
định chung trong XK sang EU. Mặt hàng tôm chế biến xuất xứ từ Việt Nam trên thị
trường Anh đang có lợi thế cao hơn về giá bán và chất lượng so với hàng của Ấn
Độ, Bangladesh.
Vì
Anh là một thị trường với nhiều cạnh tranh từ các nguồn cung đối thủ nên DN cần
hiểu biết rõ về thị trường để đưa ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người
tiêu dùng ở đây. Để thành công trên thị trường Anh, DN cần cung cấp sản phẩm có
giá tốt, khả năng đáp ứng nguồn hàng đều đặn và khả năng cải tiến phát triển
sản phẩm để bắt kịp thị hiếu của người dân.
Nhập
khẩu tôm của Anh (GT:nghìn USD, Nguồn: ITC)
|
Nguồn
cung
|
T1-T9/2017
|
T1-T9/2018
|
Tăng,
giảm (%)
|
TG
|
607.096
|
588.755
|
-3,0
|
Việt
Nam
|
113.632
|
154.737
|
36,2
|
Ấn
Độ
|
107.363
|
91.051
|
-15,2
|
Đan
Mạch
|
50.260
|
58.880
|
17,2
|
Canada
|
53.204
|
46.250
|
-13,1
|
Iceland
|
22.401
|
29.539
|
31,9
|
Bangladesh
|
55.538
|
32.206
|
-42,0
|
Honduras
|
37.069
|
27.427
|
-26,0
|
Ecuador
|
22.334
|
20.376
|
-8,8
|
Thái
Lan
|
36.678
|
30.761
|
-16,1
|
Hà
Lan
|
14.955
|
19.525
|
30,6
|
Indonesia
|
28.008
|
17.536
|
-37,4
|
TT TT CN & TM