Cơ quan nghề cá Rosrybolovstvo của Nga đã thông qua các quy định mới phân bổ hạn ngạch đánh bắt thường xuyên và đầu tư cho năm 2025, dựa trên mức tổng sản lượng đánh bắt được phép (TAC) mới cho lưu vực Viễn Đông.
Nga phê duyệt phân bổ hạn ngạch khai thác Viễn Đông cho năm 2025
Cơ quan nghề cá Rosrybolovstvo của Nga đã thông qua các quy định mới phân bổ hạn ngạch đánh bắt thường xuyên và đầu tư cho năm 2025, dựa trên mức tổng sản lượng đánh bắt được phép (TAC) mới cho lưu vực Viễn Đông.
Năm 2025, hơn 100 doanh nghiệp đánh bắt cá của Nga sẽ được tiếp cận hạn ngạch thường xuyên về cá minh thái, cá tuyết Thái Bình Dương, cá trích Thái Bình Dương, cua, mực, cá halibut, cá navaga ( Eleginus nawaga ) và nhiều loài khác trong khu vực.
Rosrybolovstvo đã chia sẻ hạn ngạch đầu tư cụ thể cho cá minh thái, cá tuyết Thái Bình Dương, cá trích Thái Bình Dương, mực và cá halibut giữa 11 công ty.
Rosrybolovstvo cũng chia sẻ hạn ngạch đầu tư cua riêng biệt cho hơn 20 doanh nghiệp địa phương, mỗi doanh nghiệp nhận được khoảng 5% tổng hạn ngạch ở các vùng và tiểu vùng Viễn Đông.
Hai công ty Amurrybprom và Kalan mỗi công ty nhận được 100% hạn ngạch ở một số tiểu vùng nhất định.
Vào tháng 10, chính quyền Nga đã phê duyệt mức TAC mới cho năm 2025, dự kiến sẽ tăng theo từng năm đối với một số loài cua nhất định, tăng đáng kể đối với cá minh thái và giảm TAC chung đối với cá tuyết.
TAC cá minh thái năm 2025 được đặt ở mức 2,46 triệu tấn, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước. TAC cá minh thái cho vùng biển Tây Bering được đặt ở mức 775.200 tấn, tăng so với mức 700.000 tấn của năm nay. TAC cá minh thái ở vùng biển Bắc Okhotsk và vùng biển Tây Kamchatka được đặt ở mức 361.800 tấn, tăng so với mức 342.500 tấn của năm nay.
Ở những nơi khác, TAC cá minh thái ở tiểu vùng Kamchatka-Kuril được phê duyệt ở mức 281.400 tấn, tăng từ mức 266.500 tấn; và TAC cá minh thái ở tiểu vùng Đông Sakhalin được ấn định ở mức 150.000 tấn, tăng từ mức 130.300 tấn.
TAC năm 2025 cho tất cả các loài cua sau đó được đặt ở mức 109.800 tấn hoặc tăng 3,4% so với cùng kỳ năm ngoái, bao gồm 50.000 tấn đối với cua opilio, tăng 5% so với năm 2024. TAC đối với cua Kamchatka ở tiểu vùng Tây Kamchatka sau đó được đặt ở mức 14.437 tấn, tăng so với mức 13.584 tấn của năm nay.
TAC cá tuyết Thái Bình Dương năm 2025 được đặt ở mức 140.600 tấn, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước. TAC cá tuyết cho vùng biển Tây Bering được đặt ở mức 48.000 tấn, điều chỉnh giảm từ mức 57.000 tấn của năm nay, trong khi TAC cá tuyết cho tiểu vùng Karaginsky được đặt ở mức 9.900 tấn, giảm từ mức 15.100 tấn của năm nay.
Ở Viễn Đông, TAC đối với cá trích Thái Bình Dương ở vùng biển phía Bắc Okhotsk được ấn định ở mức 310.000 tấn, không đổi so với năm 2024.
Thời tiết bất lợi khiến sản lượng đường của Ấn Độ sụt giảm và dập tắt hy vọng xuất khẩu
Sản lượng đường của Ấn Độ niên vụ 2024/25 có thể xuống mức 27 triệu tấn, giảm so với mức 32 triệu tấn của niên vụ trước, và thấp hơn mức tiêu thụ hàng năm hơn 29 triệu tấn.
Theo Reuters, năng suất mía ở Ấn Độ đang giảm sút do hạn hán hồi năm ngoái và mưa lớn quá mức trong năm nay. Điều này có thể khiến sản lượng đường của Ấn Độ thấp hơn mức tiêu thụ lần đầu tiên sau 8 năm.
Sản lượng thấp hơn dự kiến từ nhà sản xuất đường lớn thứ hai thế giới này có thể dập tắt hy vọng Ấn Độ cho phép xuất khẩu đường trong mùa vụ hiện tại kết thúc vào tháng 9/2025, qua đó khiến giá đường toàn cầu tiếp tục tăng lên.
Các bang Maharashtra, Karnataka, và Uttar Pradesh chiếm hơn 80% tổng sản lượng đường của Ấn Độ. Năng suất mía giảm ở các bang này đã khiến các nhà kinh doanh phải điều chỉnh giảm ước tính sản lượng cho mùa vụ 2024/25.
Theo đại diện của một công ty thương mại toàn cầu tại Ấn Độ, sản lượng đường có thể giảm xuống còn khoảng 27 triệu tấn, so với mức 32 triệu tấn của niên vụ 2023/24, và thấp hơn mức tiêu thụ hàng năm hơn 29 triệu tấn.
Trong những tháng hè, cây mía phải chịu căng thẳng kéo dài do thiếu nước. Khi mùa mưa bắt đầu, lượng mưa lại quá lớn và ánh nắng mặt trời hạn chế cũng ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cây trồng. Thời tiết bất lợi khiến năng suất mía sụt giảm từ 10 - 15 tấn trên mỗi hecta.
Bang Maharashtra ở phía Tây và bang Karnataka lân cận, chiếm gần một nửa sản lượng đường của Ấn Độ, nhận lượng mưa thấp hơn mức trung bình vào năm 2023, khiến mực nước tại các hồ chứa giảm.
Hạn hán không ảnh hưởng đến cây trồng ở bang Uttar Pradesh, bang sản xuất đường lớn nhất của Ấn Độ ở phía Bắc. Tuy nhiên, các đồn điền ở bang này lại bị ảnh hưởng bởi bệnh thối đỏ, làm giảm năng suất mía. Để kiểm soát sự lây lan của bệnh, chính quyền bang này đang khuyến khích nông dân áp dụng các giống mía mới.
Ngành công nghiệp đường Ấn Độ đang tìm cách xuất khẩu 2 triệu tấn, trong khi chính phủ cho biết có thể chỉ cho phép xuất khẩu hạn chế, nếu có dư thừa sau khi đáp ứng nhu cầu ethanol. Tuy nhiên, theo lãnh đạo của một Công ty thương mại, việc điều chỉnh giảm ước tính sản lượng đã dập tắt khả năng xuất khẩu đường của Ấn Độ trong mùa vụ hiện tại.
Cơ hội và thách thức cho xuất khẩu gạo năm 2025
Xuất khẩu gạo năm 2024 tiếp tục lập kỷ lục mới cả về sản lượng và kim ngạch, giúp Việt Nam giữ vững vị thế top 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Năm 2025 được dự báo có nhiều diễn biến mới từ cả nguồn cung và nhu cầu lúa gạo thế giới, xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ đối diện những cơ hội và thách thức nào?
Kỷ lục mới
Vượt qua những con số ấn tượng năm 2023, xuất khẩu gạo năm 2024 lần đầu đạt 9 triệu tấn, thu về 5,8 tỷ USD, tăng 10,6% về lượng nhưng tăng tới 23% về giá trị. Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2024 cũng tăng 16,7% so với năm 2023. Đây là bước bứt phá vô cùng ấn tượng sau 35 năm kể từ khi Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo.
Phân tích về kết quả trên, ông Nguyễn Ngọc Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết, từ đầu năm 2024 khi các chuyên gia dự báo sản lượng lúa gạo có thể sụt giảm vì chịu tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu, cộng với xung đột địa chính trị ở nhiều khu vực đã khiến thị trường lương thực toàn cầu có xu hướng “nóng” lên.
Trong bối cảnh Ấn Độ đã thực hiện lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng và gạo tấm từ giữa năm 2023, trong khi nhiều quốc gia nhập khẩu lương thực tích cực mua vào. Việt Nam đã tính toán nguồn cung từng mùa vụ, cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, và khai thác tốt các cơ hội xuất khẩu. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2024 cũng tăng ấn tượng, nhiều giai đoạn vượt qua Thái Lan để dẫn đầu thế giới. Nhờ đó, nông dân trồng lúa có thu nhập, lợi nhuận tốt.
Về thị trường, gạo Việt Nam đã đi khắp thế giới với khoảng 150 quốc gia, vùng lãnh thổ. Theo đó, các thị trường nhập khẩu lớn nhất là Philippines, Indonesia, Malaysia, Bờ Biển Ngà, Ghana...; trong đó, Philippines tiếp tục duy trì là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam và Việt Nam cũng là nhà cung ứng gạo hàng đầu của quốc gia này. Trong 11 tháng, xuất khẩu gạo Việt Nam sang Philippines đã đạt gần 2,5 tỷ USD, tăng 57,2% so với cùng kỳ năm 2023.
Ngoài Philippines, năm 2024 chứng kiến nhiều đợt “gom hàng” lúa gạo từ thị trường Indonesia khi Cơ quan hậu cần quốc gia này liên tục tăng sản lượng mời thầu, trung bình mỗi tháng mua vào từ 300.000 – 350.000 tấn. Tính đến cuối tháng 11, xuất khẩu gạo Việt Nam sang Indonesia đã đạt trên 1,1 triệu tấn, kim ngạch đạt 679 triệu USD, tăng 6,2% về lượng và 10,5% giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh các thị trường truyền thống ở châu Á, xuất khẩu gạo sang thị trường châu Phi cũng tăng trưởng khả quan. Theo Vụ Thị trường châu Á – châu Phi (Bộ Công Thương), châu Phi là khu vực đang có tốc độ đô thị hóa và thu nhập người dân tăng nhanh, nhu cầu gạo cũng tăng theo, đặc biệt là các loại gạo thơm.
Trong khi đó, việc sản xuất lúa gạo khu vực này vẫn còn hạn chế cả về kỹ thuật và nguồn vốn. Vì vậy, các nhà nhập khẩu ở châu Phi tích cực tìm nguồn cung gạo thơm từ Việt Nam do chất lượng ổn định và giá cả cạnh tranh. Trong số đó, Bờ Biển Ngà là quốc gia nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam tại châu lục. Ngoài ra Ghana, Senegal, Cameroon cũng là những thị trường có kim ngach nhập khẩu gạo tăng đều qua các năm.
Ngược lại, Trung Quốc từng là một trong những thị trường xuất khẩu gạo quan trọng của Việt Nam thì những năm gần đây có xu hướng sụt giảm mạnh và khá thất thường. Nếu như năm 2017, Trung Quốc nhập khẩu hơn 1 tỷ USD gạo từ Việt Nam thì đến năm 2029 chỉ còn khoảng 240 triệu USD.
Giai đoạn 2020 -2021 phục hồi thì từ đầu năm 2024 lại quay đầu giảm sâu. Ước tính cả năm 2024, sản lượng gạo Việt Nam xuất sang Trung Quốc chỉ dạt 250.000 tấn, giảm đến 71% so với cùng kỳ 2023, dù năm 2023 cũng đã giảm nhiều so với những năm trước.
Ông Nông Đức Lai, Tham tán thương mại Việt Nam tại Trung Quốc cho biết, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ lượng lớn lúa gạo do dân số đông và gạo vẫn là lương thực chính. Tuy nhiên, nước này cũng tích cực sản xuất lúa gạo nội địa nhằm giảm phụ thuộc vào lương thực nhập khẩu.
Ngoài việc kiểm soát thông qua hình thức cấp phép doanh nghiệp nhập khẩu, Trung Quốc cũng liên tục nâng tiêu chuẩn về chất lượng và mẫu mã bao bì đối với gạo thơm, gạo cao cấp. Ở phân khúc này, gạo Việt phải cạnh tranh rất gay gắt từ gạo cùng loại của Thái Lan, Campuchia. Còn với phân khúc gạo chế biến, Trung Quốc ưu tiên nhập khẩu hàng giá rẻ từ Ấn Độ, Pakistan,…
Riêng với phân khúc gạo chất lượng cao, ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An cho biết, sản lượng và giá trị xuất khẩu các sản phẩm gạo cao cấp, gạo đặc sản năm 2024 có tăng nhưng không nhảy vọt như các loại gạo thông thường.
Theo đó, gạo cao cấp, gạo đặc sản đã được xuất khẩu đi thị trường EU, Nhật Bản, Maaysia với giá ổn định trên 1.000 USD/tấn trong những năm trước, nhu cầu của khách hàng phân khúc này cũng không biến động nhiều. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu phục hồi chậm và nhiều xung đột, doanh nghiệp xuất khẩu gạo cao cấp khó đẩy giá lên cao.
Phác thảo bức tranh 2025
Kim ngạch xuất khẩu đạt gần 6 tỷ USD và lập kỷ lục mới trong hai năm liên tiếp, liệu gạo Việt Nam có còn nhiều dư địa tăng trưởng trong năm 2025? Theo dự báo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, nguồn cung lúa gạo toàn cầu năm 2025 sẽ tăng và sản lượng xuất khẩu gạo toàn cầu năm 2025 sẽ cao hơn năm 2024 khoảng 2,3 triệu tấn lên 56,3 triệu tấn. Nhu cầu nhập khẩu ở một số thị trường như Philippines, Trung Quốc và Nepal cũng được dự đoán tăng lên nhờ giá dự kiến sẽ giảm nhiệt. Thị trường lúa gạo toàn cầu sẽ tiếp tục sôi động.
Trong khi đó, ông Nguyễn Ngọc Nam phân tích, nhìn từ thực tế năm 2024, Ấn Độ dù hạn chế xuất khẩu, đến tháng 9/2024 mới chính thức mở kho gạo trắng, gạo tấm nhưng cả năm 2024 sản lượng xuất khẩu gạo nước này vẫn đạt trên 17 triệu tấn, gần gấp đôi Việt Nam.
Với việc phục hồi sản lượng sản xuất, dự kiến năm 2025 Ấn Độ có thể xuất khẩu từ 21 - 22 triệu tấn gạo các loại, tăng 5 triệu tấn so với năm 2024. Việc này sẽ ảnh hưởng nhất định đến thị phần xuất khẩu gạo của các quốc gia khác; trong đó có Việt Nam và Thái Lan.
"Về thị trường xuất khẩu, bên cạnh một số nước có khả năng tăng nhập khẩu thì nhịp độ mua vào ở một số quốc gia khác được dự đoán sẽ chậm lại. Điển hình như Indonesia, sau khi liên tục mua vào trong năm 2024, trữ lượng gạo tồn kho của nước này đã cao nhất trong vòng 5 năm.
Chính phủ nước này dự định không nhập khẩu gạo hoặc chỉ nhập một lượng nhỏ trong năm 2025, đồng thời tích cực thúc đẩy sản xuất trong nước để hướng tới tự chủ lương thực. Đây là vấn đề doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần lưu ý để kịp thời chuyển hướng và đa dạng thị trường, khách hàng trong thời gian tới." ông Nguyễn Ngọc Nam thông tin thêm.
Nguồn cung dồi dào và nhu cầu nhập khẩu trong ngắn hạn chững lại khiến giá gạo xuất khẩu của các nước đều “lao dốc”. Thực tế, giá gạo xuất khẩu đã giảm khá mạnh ngay trong tháng 12/2024. Đến cuối tháng 12 giá gạo xuất khẩu 5% tấm của Việt Nam chỉ còn ở mức 481 USD/tấn, giảm tới 39 USD so với đầu tháng 12/2024. Hiện giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã xuống thấp hơn gạo Thái Lan (499 USD/tấn) và ở mức thấp nhất trong 19 tháng qua. Tương tự, giá gạo 25% tấm và 100% tấm cũng giảm sâu, lần lượt đạt 454 USD/tấn và 383 USD/tấn.
Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An chia sẻ, hiện tại sản lượng lúa gạo thương phẩm không nhiều và nhà nhập khẩu cũng có tâm lý chờ đến vụ Đông Xuân sắp tới mới mua vào nên hoạt động mua bán khá trầm lắng.
Dự báo, sau Tết Nguyên đán khi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu thu hoạch vụ Đông Xuân, nguồn cung tăng lên, thị trường lúa gạo sẽ tăng dần nhịp độ giao dịch. Giá lúa gạo thế giới và nội địa dự báo sẽ giảm so với năm 2024 vì cạnh tranh thị phần xuất khẩu giữa các nước ngày càng tăng.
Mặc dù vậy ông Phạm Thái Bình cũng nhấn mạnh, sản lượng lúa gạo Ấn Độ lớn nhưng ít cạnh tranh trực tiếp với gạo Việt Nam bởi cơ cấu giống và chất lượng khác nhau. Đặc biệt, ở phân khúc cao cấp, gạo Việt đã được khách hàng công nhận với nhiều giống đặc sản như ST24, ST25, Jasmine,...
Doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam cũng không ngại cạnh tranh với các đối thủ từ Thái Lan hay Campuchia nhưng rất sợ tình trạng doanh nghiệp trong nước “phá giá” tự triệt tiêu lẫn nhau để giành đơn hàng, khách hàng nhưng sau đó giao hàng không đạt chất lượng, ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu gạo Việt Nam.
Doanh nghiệp xuất khẩu kỳ vọng Bộ Nông nghiệp và các địa phương đẩy nhanh việc thực hiện Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp để có nguồn cung gạo chất lượng cao, đồng đều và bền vững. Khi đó, doanh nghiệp yên tâm đa dạng hoá thị trường, mở rộng thị phần phân khúc cao cấp không chỉ ở EU mà cả với Nhật Bản, Trung Quốc và Trung Đông,...
Việc tập trung xuất khẩu gạo chất lượng cao không chỉ giúp khẳng định vị thế gạo Việt Nam mà còn là cơ sở để doanh nghiệp chủ động đàm phán về giá bán tương xứng với giá trị, giảm áp lực giá từ thị trường lương thực dự trữ.