Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo tháng 11 ước đạt 700.000 tấn với 444,9 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 11 tháng đạt gần 8,5 triệu tấn với 5,31 tỷ USD, tăng 10,6% về khối lượng và tăng 22,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Đây là sản lượng và giá trị lúa gạo xuất khẩu lần đầu tiên ngành nông nghiệp có được.
Xuất khẩu gạo 11 tháng đạt hơn 5,3 tỷ USD
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo tháng 11 ước đạt 700.000 tấn với 444,9 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 11 tháng đạt gần 8,5 triệu tấn với 5,31 tỷ USD, tăng 10,6% về khối lượng và tăng 22,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Đây là sản lượng và giá trị lúa gạo xuất khẩu lần đầu tiên ngành nông nghiệp có được.
Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam
Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 46,1%. Indonesia và Malaysia là hai thị trường lớn tiếp theo với thị phần tương ứng là 13,5% và 8,2%.
Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất, giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh nhất ở thị trường Malaysia với mức tăng 2,2 lần; thị trường có giá trị xuất khẩu giảm mạnh nhất là Trung Quốc với mức giảm 71,3%. Như vậy, sau khi đạt kỷ lục về kim ngạch xuất khẩu trong năm 2023, xuất khẩu gạo Việt Nam trong năm nay tiếp tục tăng mạnh và đã vượt mốc 5 tỷ USD, đây là lần đầu tiên xuất khẩu gạo Việt Nam vượt mốc 5 tỷ USD trong một năm.
Xuất khẩu gạo Việt Nam lần đầu tiên vượt mốc 5 tỷ USD, chủ yếu nhờ giá xuất khẩu tăng cao. Tính chung trong 3 quý đầu năm, giá gạo xuất khẩu bình quân 626 USD/tấn, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm ngoái, tương ứng với mức tăng 74 USD/tấn.
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ở mức cao, ngoài ảnh hưởng từ giá gạo trên thế giới, còn đến từ việc thay đổi chủng loại gạo xuất khẩu. Ông Đỗ Hà Nam - Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam - cho biết, Việt Nam đang dần tạo ra sự khác biệt trong sản xuất và xuất khẩu gạo so với các nước xuất khẩu khác, khi tập trung vào các loại gạo thơm, gạo chất lượng cao, đồng thời giảm mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo phẩm cấp trung bình và thấp. Qua đó, ngành lúa gạo đã tạo ra một mặt bằng giá xuất khẩu riêng cho gạo Việt Nam..
Sự riêng biệt về giá của gạo Việt Nam đã nhiều lần được thể hiện khi đứng ở mức cao nhất trong những nước xuất khẩu hàng đầu và có nhiều thời điểm cao hơn đáng kể so với gạo cùng loại của Thái Lan.
Kể từ sau khi Ấn Độ bỏ giá xuất khẩu tối thiểu đối với các loại gạo không phải là gạo Basmati (non - basmati) vào ngày 22/10, giá gạo xuất khẩu trên thị trường thế giới đã giảm khá nhiều. Tuy cũng giảm mạnh như gạo của các nước xuất khẩu khác, nhưng giá gạo Việt Nam vẫn ở mức cao nhất trong những nước xuất khẩu chính.
Cụ thể, vào ngày 3/12, giá gạo 5% tấm của Việt Nam là 517 USD/tấn, còn gạo cùng loại của Thái Lan là 499 USD/tấn, Ấn Độ 451 USD/tấn và Pakistan 453 USD/tấn. Như vậy, trong 4 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, hiện chỉ có gạo 5% tấm của Việt Nam vẫn đang ở mức hơn 500 USD/tấn.
Xúc tiến đến thị trường tỷ dân
Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu gạo Việt sang Trung Quốc từ năm 2012 - 2016 duy trì tương đối ổn định. Năm 2017, gạo xuất sang thị trường này tăng đột biến, đạt gần 1,03 tỷ USD, chiếm gần 40% trong tổng giá trị xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Trung Quốc năm 2019 bất ngờ sụt giảm về mức 240,3 triệu USD, nhưng nhanh chóng hồi phục ở các năm sau đó.
Năm 2023, xuất khẩu gạo sang Trung Quốc đứng thứ 3, chiếm 11,3% trong tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước, đạt 918.000 tấn với trị giá 530,6 triệu USD, tăng 10,08% về lượng và tăng 22,7% về kim ngạch so với năm 2022. Với mức sản lượng này, Trung Quốc đứng sau Philippines và Indonesia. Trong khi vào năm 2012, Trung Quốc từng trở thành thị trường lớn nhất, chiếm 27,5% tổng giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) và các doanh nghiệp, Trung Quốc từng là thị trường lớn nhất của gạo Việt Nam, nhưng từ đầu năm 2024 đến nay, "phong độ" xuất khẩu không còn duy trì như trước. Dữ liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy, 9 tháng năm 2024, xuất khẩu gạo sang Trung Quốc chỉ đạt 241.000 tấn, thu về 141,2 triệu USD. So với cùng kỳ năm ngoái, xuất khẩu gạo sang thị trường này giảm 72%.
Thực hiện Chương trình Quốc gia về xúc tiến thương mại, từ ngày 2 - 6/12/2024, Cục Xúc tiến thương mại phối hợp với Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) tổ chức đoàn giao dịch thương mại mặt hàng gạo tại tỉnh Quảng Đông và tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc).
Đoàn gồm 10-18 doanh nghiệp sẽ làm việc tại một số nhà xưởng, kho bãi, vận tải và một số doanh nghiệp nhập khẩu gạo lớn tại Trung Quốc; Tìm hiểu hệ thống và cách thức phân phối, bán lẻ và tiêu thụ của người tiêu dùng Trung Quốc, từ đó xây dựng phương thức thâm nhập trực tiếp, gia tăng thị phần tại thị trường này.
Hoạt động xúc tiến thương mại gạo nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt thông tin về chính sách, nhu cầu thị trường để tăng cơ hội hợp tác, đón bắt cơ hội xuất khẩu sau năm 2024 đối mặt với sụt giảm mạnh. Thông qua hoạt động xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương kỳ vọng hỗ trợ doanh nghiệp cải thiện chất lượng, tận dụng cơ hội để khôi phục vị thế tại thị trường tiềm năng này.
Các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo cũng được lưu ý về việc tận dụng tốt cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đang có với Trung Quốc để tăng tốc xuất khẩu, tận dụng ưu đãi thuế quan.
Gạo trở thành mặt hàng nông sản thứ 2 của Việt Nam đạt mốc xuất khẩu trên 5 tỷ USD sau rau quả. Năm 2023, xuất khẩu rau quả lần đầu vượt 5 tỷ USD, 11 tháng năm 2024 đã vượt mốc 6,6 tỷ USD và đang hướng tới kim ngạch 7 tỷ USD khi kết thúc năm. Theo sau gạo, nhiều khả năng khi kết thúc năm nay, xuất khẩu cà phê của Việt Nam cũng sẽ có lần đầu tiên chạm mốc 5 tỷ USD. Tính chung các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, đến nay đã có 3 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu từ 5 tỷ USD trở lên là đồ gỗ, rau quả và gạo. Với kết quả đạt được, ông Phùng Đức Tiến – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận định, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản cả năm 2024 và tự tin để hướng tới kỷ lục mới 60 tỷ USD…
Xuất khẩu sản phẩm nhựa 10 tháng đầu năm 2024 tăng trưởng cao
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nhựa trong 10 tháng đầu năm 2024 đạt trên 5,46 tỷ USD, tăng 30,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Riêng tháng 10/2024 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 600,86 triệu USD, tăng 15,2% so với tháng 9/2024 và tăng 27,2% so với tháng 10/2023.
Trong số rất nhiều thị trường xuất khẩu sản phẩm nhựa, thì Mỹ đạt kim ngạch lớn nhất 2,44 tỷ USD, chiếm 44,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước, tăng 43,1% so với cùng kỳ năm 2023. Riêng tháng 10/2024 đạt 290,47 triệu USD, tăng 19,6% so với tháng 9/2024 và tăng 38,9% so với tháng 10/2023.
Thị trường Nhật Bản đứng thứ 2 về kim ngạch, đạt gần 604,73 triệu USD, chiếm 11%, tăng 6%; Riêng tháng 10/2024 đạt 65,3 triệu USD, tăng 13,3% so với tháng 9/2024 và tăng 12% so với tháng 10/2023; Tiếp sau đó là thị trường Hàn Quốc chiếm 4,6% trong tổng kim ngạch, đạt 253,44 triệu USD, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm 2023. Xuất khẩu sản phẩm nhựa sang Thái Lan chiếm 3,5%, đạt 188,38 triệu USD, tăng mạnh 133,5%.
Nhìn chung, xuất khẩu sản phẩm nhựa sang đa số thị trường trong 10 tháng đầu năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm 2023.
Xuất khẩu sản phẩm nhựa 10 tháng đầu năm 2024
(Tính toán từ số liệu công bố ngày 12/11/2024 của TCHQ)
ĐVT: USD
Đài Loan chi phối xuất khẩu hàu của Việt Nam
Sau một thời gian tăng trưởng liên tục từ đầu năm, xuất khẩu hàu của Việt Nam đang có xu hướng sụt giảm trong những tháng cuối năm 2024. Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, từ tháng 8 trở lại đây, giá trị xuất khẩu (XK) hàu của Việt Nam sụt giảm liên tục. Tính riêng trong tháng 10, giá trị XK hàu đã giảm 19%. Tuy nhiên, nhờ sự tăng trưởng tốt trong những tháng đầu năm nên tính luỹ kế 10 tháng, giá trị XK hàu vẫn tăng 14%, đạt hơn 12 triệu USD.
Hiện hàu đang là 1 trong 4 nhóm sản phẩm nhuyễn thể có vỏ XK chủ lực của Việt Nam. Các DN Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hàu dưới dạng sản phẩm tách vỏ ướp đá hay thịt hàu.
Tính tới thời điểm hiện tại, các sản phẩm hàu của Việt Nam vẫn chưa tiếp cận được nhiều thị trường, chủ yếu tập trung ở các nước châu Á. Trong số các thị trường XK hàu của Việt Nam, Đài Loan vẫn đang là thị trường chi phối XK. Giá trị XK hàu sang thị trường này chiếm 76% tổng giá trị XK của Việt Nam.
Ngoài Đài Loan, Lào và Campuchia cũng là 2 nước thường xuyên NK hàu của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm nay. Trong khi XK hàu sang Lào trong 10 tháng tăng 70%, XK sang Campuchia lại giảm 42%.
TT TT CN & TM