19 người đang online
°

Xuất khẩu thủy sản của Na Uy tháng 10/2024 đạt kỷ lục

Đăng ngày 06 - 12 - 2024
Lượt xem: 64
100%

Ông Christian Chramer - Giám đốc điều hành của Hội đồng Thủy sản Na Uy cho biết: Xuất khẩu thủy sản của Na Uy tháng 10/2024 đạt mức kỷ lục 18,5 tỷ NOK, tăng 914 triệu NOK, tương đương 5% so với tháng 10/2023, chủ yếu là do xuất khẩu cá thu tăng mạnh.

 

Xuất khẩu thủy sản của Na Uy tháng 10/2024 đạt kỷ lục

Ông Christian Chramer - Giám đốc điều hành của Hội đồng Thủy sản Na Uy cho biết: Xuất khẩu thủy sản của Na Uy tháng 10/2024 đạt mức kỷ lục 18,5 tỷ NOK, tăng 914 triệu NOK, tương đương 5% so với tháng 10/2023, chủ yếu là do xuất khẩu cá thu tăng mạnh.

Xuất khẩu cá thu của Na Uy tháng 10/2024 đạt 2,5 tỷ NOK, tăng 750 triệu NOK so với tháng 10/2023, đây cũng là kỷ lục xuất khẩu cá thu trước đó do nhu cầu cao ở châu Á dẫn đến cạnh tranh gia tăng và giá tăng.

Tính chung 10 tháng năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Na Uy đạt 143,1 tỷ NOK, tăng 1,4 tỷ NOK, tương đương 1% so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu tính bằng đô la, thì giá trị không thay đổi, trong khi tính bằng euro, giá trị xuất khẩu giảm 1%.

Trong 10 tháng năm 2024, xuất khẩu thủy sản sang Mỹ đã giảm nhẹ, nhưng riêng tháng 10/2024 xuất khẩu tăng hơn 100 triệu NOK so với tháng 10/2023 do xuất khẩu cá hồi đạt kỷ lục.

Xuất khẩu thủy sản tháng 10/2024

Trong tháng 10/2024, thủy sản của Na Uy xuất khẩu sang 115 nước, các thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất là Ba Lan, Mỹ và Hà Lan. Xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU giảm 5%, xuất khẩu thủy sản sang châu Á tăng 31%.

Tháng 10/2024 xuất khẩu cá hồi đỏ (Salmon) đạt 144.761 tấn, tăng 10% so với tháng 10/2023; trị giá 12 tỷ NOK, tăng 133 triệu NOK, tương đương 1%

Trong tháng 10/2024, xuất khẩu cá phi lê tươi tăng 11% lên khoảng 12.000 tấn, trong khi xuất khẩu phi lê đông lạnh tăng 39% lên khoảng 8.000 tấn. Trong khi đó, xuất khẩu cá hồi tươi nguyên con tăng 7% lên 144.761 tấn. Mỹ là thị trường tăng trưởng lớn nhất đối với cả philê tươi và đông lạnh. Xuất khẩu sang Mỹ tăng 99 triệu NOK, tương đương 11% so với tháng 10/2023.

Xuất khẩu sang Mỹ đạt 7.602 tấn, tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái.

Xuất khẩu cá hồi hoa (Trout) tăng

Trong tháng 10/2024 Na Uy đã xuất khẩu 7.111 tấn cá hồi hoa, tăng 18%, so với tháng 10/2023; trị giá 620 triệu NOK, tăng 74 triệu NOK, tương đương 13%. Lithuania, Mỹ và Thái Lan là những thị trường tiêu thụ cá hồi hoa lớn nhất. Lithuania có mức tăng trưởng giá trị cao nhất tăng 76 triệu NOK, tương đương 287% so với tháng 10/2023. Khối lượng xuất khẩu sang Lithuania đạt 1.328 tấn, tăng 329%.

Xuất khẩu cá tuyết tươi tăng mạnh

Tháng 10/2024 Na Uy xuất khẩu 1.774 tấn cá tuyết tươi, tăng 2% so với tháng 10/2023; trị giá 115 triệu NOK, tăng 3 triệu NOK, tương đương 3%, xuất khẩu nhiều nhất sang Đan Mạch, Hà Lan và Latvia.

Ông Eivind Hestvik Brækkan – chuyên gia phân tích tại Hội đồng hải sản Na Uy cho biết: Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 9/2023, khối lượng xuất khẩu cá tuyết tươi tăng so với cùng tháng năm trước do khối lượng xuất khẩu cá tuyết nuôi tươi tăng 18%/năm, lên 992 tấn. Giá trị xuất khẩu tăng 26% lên 62 triệu NOK.

Trong tháng 10/2024, cá tuyết nuôi chiếm 54% giá trị xuất khẩu cá tuyết tươi. Khối lượng xuất khẩu cá tuyết tươi tự nhiên giảm 13% xuống 781 tấn, trong khi giá trị xuất khẩu giảm 16% xuống 53 triệu NOK. Khối lượng xuất khẩu cá tuyết tươi tự nhiên tháng 10/2024 thấp nhất kể từ năm 2008.

Trong 10 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cá tuyết tươi nuôi nguyên con tăng tới 40% so với cùng kỳ năm 2023, lên 9.900 tấn. Do đó, xuất khẩu cá tuyết nuôi cả năm 2024 sẽ vượt kỷ lục xuất khẩu năm 2010 là 11.100 tấn.

Đối với cả cá tuyết tự nhiên và cá tuyết nuôi, đều xuất khẩu chủ yếu sang Hà Lan, Đan Mạch và Latvia.

 

Xuất khẩu thủy sản của Achentina 10 tháng đầu năm tăng trưởng

Xuất khẩu thủy sản của Achentina 10 tháng đầu năm 2024 đạt 1.713 triệu USD, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước.

Theo Revista Puerto, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Achentina tháng 10/2024 tăng 11,4% so với tháng 10/2023 chủ yếu do khối lượng xuất khẩu tăng, trong khi giá nguyên liệu thô, ngoại trừ mực và tôm nguyên con, lại giảm.

Theo Báo cáo của CAPeCA, xuất khẩu thủy sản của Achentina 10 tháng đầu năm 2024 đạt 1.713 triệu USD, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, xuất khẩu từng loài thủy sản có sự khác biệt đáng kể. Đối với cá tuyết hubbsi, xuất khẩu tăng là do khối lượng tăng do giá giảm ở tất cả các thị trường tiêu thụ. Xuất khẩu tôm bỏ đầu giảm cả về lượng và giá trị. Ngược lại, tôm nguyên con có nhu cầu tăng và giá tăng nhẹ, mặc dù vẫn còn kém xa mức lợi nhuận được ghi nhận cho đến năm 2019; xuất khẩu mực ống là loài duy nhất tăng trưởng cả về doanh thu và giá cả.

Cá tuyết (hubbsi)

Xuất khẩu cá tuyết phi lê tăng 15,3% về lượng và 13,9% về giá trị, mặc dù giá trung bình giảm 1,2%, nguyên nhân do lượng xuất khẩu tăng. Brazil là thị trường xuất khẩu chính, khối lượng tăng 22,9% nhưng giá trị chỉ tăng 21,5% do giá trung bình giảm (3.226 USD/tấn). Mô hình này được lặp lại ở hầu hết các thị trường, ngoại trừ Nga, nơi khối lượng tăng 24,1% và giá tăng 8,3% (3.151 USD/tấn), mặc dù đây vẫn là một trong những thị trường xuất khẩu ít nhất. Tây Ban Nha, thị trường lớn thứ 2, giá thấp nhất, 3.012 USD/tấn, trong khi Israel giá cao nhất, 3.556 USD, với khối lượng tăng 64%.

Các sản phẩm cá tuyết đông lạnh (không bao gồm philê) cũng tăng trưởng 34,2% về lượng, trong khi giá trung bình vẫn ổn định ở mức 1.533 USD/tấn. Nga dẫn đầu về khối lượng với mức tăng 34,4% nhưng giá giảm 3,2% (1.580 USD/tấn). Tây Ban Nha là nước trả giá cao nhất (1.849 USD) với lượng tăng 78%.

Tôm

Tôm nguyên con có khối lượng xuất khẩu tăng 19,7% và giá trung bình tăng 3,5%, đạt 5.653 USD/tấn. Điều này thể hiện doanh thu tăng 23,9%. Tuy nhiên, giá vẫn thấp hơn mức trước năm 2020.

Xuất khẩu sang Mỹ đạt mức tốt nhất (5.849 USD) với nhu cầu tăng 194,8%, mặc dù chỉ đạt 800 tấn. Xuất khẩu sang Tây Ban Nha đạt khối lượng cao nhất, chiếm gần 50% tổng lượng xuất khẩu, tăng 30% và giá trung bình 5.594 USD/tấn. Xuất khẩu sang Italia và Nhật Bản cũng tăng (lần lượt là 58,6% và 54,6%) với mức giá cạnh tranh. Ngược lại, xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 7,4% và giá thấp nhất (5.534 USD).

Xuất khẩu mặt hàng tôm bỏ đầu giảm 9,6% và giá trung bình giảm 0,9%, đứng ở mức 7.630 USD/tấn, kém xa mức 8.711 USD đạt được vào năm 2022. Trung Quốc, thị trường chính, duy trì mức giá trung bình ở mức 7.018 USD/tấn nhưng khối lượng giảm 7,4%. Tây Ban Nha cũng giảm lượng mua vào (-18,3%) và giá giảm 5,1% so với năm 2023.

Mực

Mực ống là loài duy nhất có mức tăng trưởng bền vững do tăng cả về lượng (+8,7%) và giá trị (+13,3%). Giá trung bình đứng ở mức 2.547 USD/tấn, do nhu cầu đã cạn kiệt nguồn hàng sẵn có vào đầu tháng 11.

Xuất khẩu sang Trung Quốc dẫn đầu với khối lượng tăng 81,4% và giá tăng 9,9% (2.501 USD/tấn). Xuất khẩu sang Hàn Quốc giảm 24%, nhưng giá tăng 14,7%, mặc dù vẫn là một trong những thị trường có giá thấp nhất (2.357 USD). Xuất khẩu sang Tây Ban Nha tăng 68%, giá tốt nhất: 3.422 USD/tấn.

 

Nhập khẩu sản phẩm hoá chất 10 tháng năm 2024 trị giá gần 6,32 tỷ USD

10 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt gần 6,32 tỷ USD, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2023.

Theo tính toán từ số liệu sơ bộ của Tổng cục Hải quan, sản phẩm hoá chất các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong tháng 10/2024 tăng 7% về kim ngạch so với tháng liền kề trước đó nhưng giảm 1,8% so với tháng 10/2023, đạt 636,21 triệu USD. Tính chung cả 10 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt gần 6,32 tỷ USD, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2023.

Nhập khẩu sản phẩm hoá chất từ Trung Quốc - thị trường lớn nhất trong 10 tháng đầu năm nay giảm 11% so với cùng kỳ năm 2023, đạt gần 2,5 tỷ USD, chiếm 39,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước.

Hàn Quốc là thị trường lớn thứ 2 cung cấp sản phẩm hóa chất cho Việt Nam, đạt 768,49 triệu USD, chiếm 12,2%, tăng 13,4% so với cùng kỳ.

Tiếp sau đó là thị trường Nhật Bản đạt 517,05 triệu USD, tăng 11,7% so với cùng kỳ, chiếm 8,2% trong tổng kim ngạch.

Nhập khẩu sản phẩm hoá chất từ thị trường EU trong 10 tháng đầu năm nay tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2023, đạt 582,51 triệu USD, chiếm 9,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước.

Nhập khẩu sản phẩm hoá chất 10 tháng năm 2024

(Tính toán theo số liệu của TCHQ công bố ngày 12/11/2024)

ĐVT: USD

 

Tác động của CEAP tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường EU

EU hiện đang là một trong các thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng ngày càng lớn dưới tác động tích cực, lan tỏa của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).

Tuy nhiên, Kế hoạch hành động nền kinh tế tuần hoàn của EU (CEAP) sẽ đặt ra những yêu cầu mới cho các nhà sản xuất, xuất khẩu hàng hóa, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhanh chóng chuyển đổi và thích ứng.

Kinh tế tuần hoàn – Xu thế không thể đảo ngược

Mặc dù có những lợi thế lớn nhưng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU đang đứng trước những thách thức mới đến từ các chính sách xanh của EU đưa ra những quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu và tiêu dùng theo hướng phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn. Bên cạnh đó, dự báo xu hướng này của EU cũng sẽ được các nước phát triển, các thị trường lớn của hàng hóa Việt Nam xuất khẩu chú trọng, tăng cường siết chặt, tiến tới thiết lập các tiêu chuẩn xanh mới đối với hàng hóa trong thương mại quốc tế. Một trong số những chính sách đó là Kế hoạch hành động nền kinh tế tuần hoàn của EU (CEAP – là một phần của Thỏa thuận xanh Châu Âu). Kế hoạch này dự báo sẽ tác động mạnh tới thương mại toàn cầu, nhất là giao thương từ các nước đối với EU. Đồng thời đặt ra những yêu cầu mới cho các nhà sản xuất, xuất khẩu hàng hóa vào EU và các chuỗi cung ứng.

Chia sẻ tại tọa đàm “Kế hoạch của EU về kinh tế tuần hoàn (CEAP) và hệ lụy đối với doanh nghiệp Việt Nam” do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 27-11, đại diện Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ (Bộ Công Thương) cho biết, CEAP sẽ có tác động đến 7 nhóm lĩnh vực chính, bao gồm: thiết bị điện tử, công nghệ thông tin, nhóm về pin và nhóm về bao bì, nhóm về nhựa, dệt may, da giày... Quy định trọng tâm của CEAP liên quan đến thiết kế sinh thái, sản phẩm bền vững.

Quy định trọng tâm đó liên quan đến ISPR - là một quy định liên quan đến thiết kế sinh thái, sản phẩm bền vững, đã có hiệu lực từ tháng 7/2024. Những quy định này có thể ảnh hưởng đến một số lĩnh vực xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, trong đó có dệt may và giày dép, các sản phẩm nhựa và bao bì. Trong ISPR có một số quy định liên quan đến việc ngăn chặn, hạn chế tiêu hủy các sản phẩm dệt may, hoặc có những quy định sau này các sản phẩm sẽ phải hộ chiếu kỹ thuật số DPP (DPP là hồ sơ kỹ thuật số cung cấp thông tin toàn diện về sản phẩm và toàn bộ chuỗi giá trị của sản phẩm. DPP sẽ bao gồm các chi tiết thiết yếu như mã định danh sản phẩm duy nhất, tài liệu tuân thủ và thông tin về các chất đáng quan tâm).  

Đó là một chiến lược của EU để giúp khối này giảm phát thải ròng bằng 0 sớm nhất có thể vào năm 2050. Và để thực hiện được chiến lược và mục tiêu này thì EU sẽ đưa ra hàng loạt các quy định, trong đó có CEAP với những quy định chi tiết cụ thể đối với từng nhóm hàng, từng lĩnh vực. Nếu những sản phẩm không đáp ứng được những tiêu chuẩn của EU như liên quan đến hộ chiếu sản phẩm kỹ thuật số chẳng hạn, có khả năng không thể thâm nhập được vào thị trường EU.

Về phía doanh nghiệp, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty May Hưng Yên cho hay 4 năm thực hiện EVFTA, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của doanh nghiệp tăng gấp đôi sang EU. Tuy nhiên, ngành dệt may phải đối mặt với vấn đề về xuất xứ. Nếu như không đạt được yêu cầu này, sản phẩm sẽ không thể xuất vào EU theo EVFTA và hưởng lợi về thuế quan được, ông Nguyễn Xuân Dương cho biết. Đồng thời đề xuất cơ quan chức năng giải quyết bài toán nguồn nguyên liệu tại chỗ nhằm đáp ứng về quy tắc xuất xứ phục vụ xuất khẩu, đồng thời đầu tư các khu công nghiệp lớn để thu hút nhà đầu tư sản xuất, tận dụng ưu đãi của EVFTA và đáp ứng tiêu chuẩn xanh của thị trường, cũng như hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp chuyển đổi số, chuyển đổi xanh.

Tiến sỹ Mai Thanh Dung, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cũng nhận định, doanh nghiệp nào làm được tốt những quy trình hoặc giải pháp kinh tế tuần hoàn sẽ đạt được hiệu quả trong sản xuất - kinh doanh tốt hơn những doanh nghiệp khác, bởi tiết kiệm được nguyên liệu đầu vào, kéo dài được vòng đời sản phẩm… Ông cũng cho rằng, để đầu tư vào chuyển đổi công nghệ sản xuất, cần phải có nguồn lực lớn về tài chính. Đó là vấn đề hạn chế của đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mặc dù vậy, những yêu cầu về kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là xu thế không thể đảo ngược, buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ để tham gia chuỗi giá trị, nâng cao sức cạnh tranh tại các thị trường khó tính.

Đồng bộ các giải pháp

Tại tọa đàm, đại diện Vụ thị trường châu Âu-châu Mỹ khuyến nghị các doanh nghiệp cần tự trang bị cho mình thông tin thị trường đầy đủ, đúng cùng với đó có những chiến lược cụ thể, chi tiết để sẵn sàng thích ứng với những tiêu chí, quy định khắt khe của thị trường xuất khẩu. Bởi ngoài CEAP,  EU cũng ban hành một loạt các quy định khác, trong đó có Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU (gọi tắt là CBAM).  Mặc dù hiện giờ CBAM chỉ áp dụng đến một số lĩnh vực phát thải lớn trong lĩnh vực công nghiệp như xi măng, sắt, thép… nhưng sau này có thể mở rộng ra những lĩnh vực khác.

Cũng theo đại diện Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ, hiện nay có rất nhiều cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế, sẵn sàng chia sẻ và cũng thường xuyên phối hợp với Bộ Công Thương để hỗ trợ các doanh nghiệp vạch ra được chiến lược cụ thể để thâm nhập vào được thị trường châu Âu.

Trước mắt, doanh nghiệp sẽ phải đầu tư sản xuất, phải thay đổi quy trình sản xuất, quy trình quản lý; chi phí đầu tư tăng cũng có thể kéo theo chi phí, giá thành sản phẩm tăng, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp đáp ứng được những tiêu chuẩn đó cũng có thể sẽ tiếp cận được những đối tượng khách hàng mới. Bên cạnh đó, mặc dù chi phí đầu tư sản xuất để thay đổi, để đáp ứng được những tiêu chuẩn châu Âu ban đầu có thể cao, nhưng khi các doanh nghiệp đã có được chiến lược đầu tư bài bản, họ sẽ thu được những hiệu suất kinh doanh sản xuất tốt hơn thì cũng sẽ giảm được chi phí về lâu dài.

Các chuyên ra cũng chỉ ra rằng, việc sớm triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ và việc chuyển đổi sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thích ứng với Kế hoạch hành động về kinh tế tuần hoàn của EU không chỉ giúp doanh nghiệp giữ vững thị phần mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường EU, sau đó mở rộng sang các thị trường lớn, trọng điểm khác. Vì vậy, các cơ quan quản lý cần phải hành động càng sớm càng tốt, có những hướng dẫn thống nhất và đánh giá phù hợp, có những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp cụ thể, để hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam không đánh mất lợi thế từ Hiệp định EVFTA và bị loại khỏi chuỗi giá trị toàn cầu.

Về phần mình, các doanh nghiệp cần phải chủ động thay đổi tư duy, chủ động chuyển đổi sản xuất theo hướng tuần hoàn, bền vững. Thích ứng tốt với Chiến lược Thỏa thuận Xanh châu Âu nói chung và Kế hoạch hành động về kinh tế tuần hoàn của EU (CEAP) giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa những lợi ích mà EVFTA mang lại.

 

 TT T T CN& TM

Tin liên quan

Xuất khẩu gạo 9 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng, kim ngạch và giá(25/10/2024 10:51 SA)

Xuất khẩu phân bón 2 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch(04/04/2024 9:07 SA)

Tin mới nhất

Xuất khẩu gạo 9 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng, kim ngạch và giá(25/10/2024 10:51 SA)

Xuất khẩu phân bón 2 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch(04/04/2024 9:07 SA)