21 người đang online
°

Xuất khẩu gạo 9 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng, kim ngạch và giá

Đăng ngày 25 - 10 - 2024
Lượt xem: 31
100%

9 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu gạo tăng 8,4% về lượng, tăng 23% về kim ngạch và tăng 13,4% về giá so với cùng kỳ năm 2023

 

Xuất khẩu gạo 9 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng, kim ngạch và giá

9 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu gạo tăng 8,4% về lượng, tăng 23% về kim ngạch và tăng 13,4% về giá so với cùng kỳ năm 2023

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 9/2024 xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm 3,9% về lượng, nhưng tăng nhẹ 0,11% kim ngạch so với tháng 8/2024 và giá tăng 4,1%, đạt 818.355 tấn, tương đương 510,39 triệu USD, giá trung bình 623,7 USD/tấn. Trong tháng 9/2024 gạo của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Philippines đạt 416.766 tấn, tương đương 262,32 triệu USD, giá 629,4 USD/tấn, giảm 16,2% về lượng, giảm 11% kim ngạch nhưng tăng 6,,3% về giá so với tháng 8/2024; sau đó là thị trường Indonesia đạt 119.220 tấn, tương đương 67,26 triệu USD, giá 564 USD/tấn, giảm 11,8% về lượng, giảm 11,6% kim ngạch nhưng tăng 0,3% về giá; tiếp đến thị trường Malaysia đạt 44.079 tấn, tương đương 26,13 triệu USD, giá 592,9 USD/tấn, giảm 17% về lượng, giảm 17,7% kim ngạch và giảm 0,8% về giá so với tháng 8/2024.

Tính chung cả 9 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu gạo đạt gần 6,96 triệu tấn, tương đương trên 4,35 tỷ USD, giá trung bình 625,6 USD/tấn, tăng 8,4% về lượng, tăng 23% về kim ngạch và tăng 13,4% về giá so với 9 tháng năm 2023,. Philippines đứng đầu, đạt gần 3,22 triệu tấn, tương đương gần 1,98 tỷ USD, giá 613,4 USD/tấn, tăng 32% về lượng, tăng 53,3% về kim ngạch và tăng 16,2% về giá so với 9 tháng năm 2023; Indonesia đứng thứ 2, đạt 1,03 triệu tấn, tương đương 624,76 triệu USD, giá 604,7 USD/tấn, tăng 16,8% về lượng, tăng 35% kim ngạch và tăng 15,6% về giá. Malaysia đứng thứ 3 với 626.951 tấn, tương đương 372,07 triệu USD, giá trung bình 593,5 USD/tấn, tăng mạnh 96,7% về lượng, tăng 131,2% kim ngạch và tăng 17,6% về giá so với 9 tháng năm 2023.

Cơ cấu xuất khẩu gạo sang các thị trường 9 tháng đầu năm 2024

 

Thức ăn gia súc xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Trung Quốc

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 9 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu đạt gần 753,14 triệu USD, giảm 15,8% so với 9 tháng đầu năm 2023.

Riêng tháng 9/2024 xuất khẩu đạt gần 79,13 triệu USD, giảm 10% so với tháng 8/2024 và giảm 22,6% so với tháng 9/2023.

Thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Trung Quốc, chiếm 39,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của cả nước. Trong 9 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu sang thị trường này đạt trên 299,25 triệu USD, giảm 31,4% so với 9 tháng đầu năm 2023; riêng tháng 9/2024 xuất khẩu sang thị trường này đạt 27,89 triệu USD, giảm 10,6% so với tháng 8/2024 và giảm 39,4% so với tháng 9/2023.

Tiếp theo là thị trường Mỹ đạt gần 99,32 triệu USD, tăng 63,5%; Campuchia đạt 92,76 triệu USD, giảm 30,3%; Malaysia đạt 84,86 triệu USD, giảm 13,2%. Xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu sang thị trường Đông Nam Á đạt gần 234,31 triệu USD, giảm 18,4% so với 9 tháng đầu năm 2023, chiếm 31,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của cả nước.

Cơ cấu thị trường xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 9 tháng đầu năm 2024

 

 

Xuất khẩu sang Nga tăng trưởng trong 9 tháng đầu năm 2024

Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Nga trong tháng 9/2024 đạt 193 triệu USD, giảm 11,5% so với tháng trước, tính chung 9 tháng đầu năm 2024 đạt 1,77 tỷ USD, tăng 50,1% so với cùng kỳ năm trước.

Mặt hàng dệt may dẫn đầu kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm 2024 đạt 616,3 triệu USD, tăng 117,7%, chiếm 34,6% tỷ trọng xuất khẩu. Tiếp đến là cà phê đạt 235,5 triệu USD, tăng 28,7%, chiếm 13,2% tỷ trọng xuất khẩu.

Trong 9 tháng đầu năm 2024, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường này đều tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước đó: Hàng thủy sản tăng 94,7%; hạt tiêu tăng 86,3%; bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc tăng 123,6%; gạo tăng 130,9%; sắt thép các loại tăng 133,9%.

Vụ thị trường châu Á, châu Âu lưu ý, các doanh nghiệp cũng cần tận dụng tối đa ưu đãi trong các Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các nước để đa dạng hoá thị trường. Trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn khi xuất hàng sang Nga và Ukraine, có thể liên hệ thương vụ Việt Nam tại hai quốc gia này để được hỗ trợ, tìm phương thức tháo gỡ.

Số liệu xuất khẩu sang Nga 9 tháng đầu năm 2024

(Tính toán số liệu công bố ngày 10/10/2024 của TCHQ)

 

Tôm Việt Nam khẳng định chất lượng trên thị trường EU

Thị trường Liên minh châu Âu có yêu cầu cao về chất lượng là điểm đến hấp dẫn của ngành tôm nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Tôm đạt tiêu chuẩn xuất đi EU không chỉ giúp tăng giá trị sản phẩm mà còn khẳng định vị thế của ngành tôm Việt Nam trên thị trường quốc tế.

EU hiện là thị trường nhập khẩu (NK) tôm lớn thứ 4 của Việt Nam, chiếm 13% tổng giá trị xuất khẩu (XK) tôm của Việt Nam đi các thị trường. Tại thị trường này, tôm Việt Nam phải cạnh tranh mạnh mẽ với các  đối thủ nặng ký đến từ châu Á như Ấn Độ, Thái Lan và Mỹ Latinh như Ecuador, Brazil. Điều này cho thấy tôm Việt Nam đang ngày càng khẳng định được chất lượng, đảm bảo được các yêu cầu cao tại thị trường EU.

9 tháng đầu năm nay, XK tôm Việt Nam sang EU đạt trên 360 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 9 tháng đầu năm 2024, XK tôm sang EU chỉ giảm trong tháng 2 và 3, XK trong các tháng còn lại đều ghi nhận tăng trưởng 2 con số.

Giá trung bình xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU, đặc biệt là giá tôm chân trắng cũng ghi nhận tăng trưởng liên tục kể từ tháng 6 năm nay. Điều này cho thấy nhu cầu của thị trường EU đối với tôm Việt Nam vẫn cao, đặc biệt là tôm chân trắng.

Với những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng và an toàn thực phẩm, thị trường EU đã trở thành một thước đo quan trọng cho năng lực cạnh tranh của ngành tôm Việt Nam. Từ việc giảm thiểu tác động đến môi trường trong quá trình nuôi, đến việc đảm bảo truy xuất nguồn gốc rõ ràng và phúc lợi động vật, mỗi con tôm xuất khẩu đều phải đáp ứng những tiêu chuẩn cao nhất.

9 tháng đầu năm nay, trong số các sản phẩm thủy sản XK của Việt Nam, tôm mang về kim ngạch XK cao nhất, đạt 2,8 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2023. XK tôm sang các thị trường chính (Mỹ, EU, Trung Quốc…) đều ghi nhận tăng trưởng khả quan.

9 tháng đầu năm nay, XK tôm Việt Nam sang Mỹ đạt 566 triệu USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã hạ lãi suất trong kỳ họp tháng 9 và kỳ vọng có thêm 2 đợt hạ lãi suất vào tháng 11 và tháng 12 sẽ góp phần thúc đẩy tiêu dùng do chi phí vay giảm, nhất là khi số lượng việc làm đang tăng. Điều này có lợi cho XK hàng hóa sang thị trường này.

Theo số liệu của Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia Hoa Kỳ (NOAA), trên thị trường Mỹ, trong tháng 8/2024, XK tôm Việt Nam ghi nhận tích cực hơn các đối thủ khác như Ấn Độ, Ecuador khi XK tôm từ các nguồn cung này sang Mỹ đều giảm.

Giá trung bình NK tôm từ Việt Nam vào Mỹ ghi nhận tăng từ 4,59 USD/pao vào tháng 7/2024 lên 4,95 USD/pao vào tháng 8/2024.

XK tôm Việt Nam sang Trung Quốc & HK tăng 77% trong tháng 9. Lũy kế 9 tháng, XK tôm sang thị trường này tăng 29% đạt 585 triệu USD. Trung Quốc đang đưa ra nhiều giải pháp nhằm tăng chi tiêu tiêu dùng trong dân, điều này hỗ trợ cho hoạt động NK tôm vào thị trường này.

Năm 2024, tôm đông lạnh XK vẫn bị tác động bởi xu hướng giá chưa phục hồi rõ rệt, cùng với áp lực giá bán cạnh tranh với tôm Ecuador và Ấn Độ. Tuy nhiên, tôm chế biến của Việt Nam vẫn có vị thế tốt ở các thị trường. Do vậy, tính đến cuối tháng 9, XK tôm chân trắng chế biến vẫn tăng gần 10%, trong khi XK tôm chân trắng đông lạnh tăng nhẹ hơn với mức 4,5%.

Giá tôm nguyên liệu của Việt Nam đã ghi nhận tích cực hơn kể từ tháng 7 năm nay. Giá tôm chân trắng nguyên liệu các cỡ 50, 80, 100 con/kg tăng đều kể từ tháng 7 đến tháng 9. Giá trung bình tôm XK của Việt Nam sang Mỹ và EU cũng ghi nhận tăng từ tháng 6. Giá xuất sang Trung Quốc, Nhật Bản cũng ghi nhận tăng nhẹ.

Dự kiến giá tôm nguyên liệu vẫn sẽ tiếp tục khả quan trong quý IV tuy nhiên có khả năng thiếu nguyên liệu cục bộ do đây là giai đoạn Trung Quốc sẽ tăng mua cho nhu cầu lễ tết Nguyên đán và Năm mới, DN cần nguồn nguyên liệu để đẩy mạnh sản xuất các đơn hàng cuối năm.

 

 TT TT CN & TM

Tin liên quan

Xuất khẩu thủy sản của Na Uy tháng 10/2024 đạt kỷ lục(06/12/2024 10:28 SA)

Xuất khẩu phân bón 2 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch(04/04/2024 9:07 SA)

Tin mới nhất

Xuất khẩu thủy sản của Na Uy tháng 10/2024 đạt kỷ lục(06/12/2024 10:28 SA)

Xuất khẩu phân bón 2 tháng đầu năm 2024 tăng cả lượng và kim ngạch(04/04/2024 9:07 SA)