Nhiều tiềm năng cho sản xuất protein thay thế trong thức ăn thủy sản
Sau khi thu hút được nguồn tài trợ mới đáng kể, Enifer và Kuehnle Biosciences đang hướng tới việc đóng vai trò lớn hơn trong lĩnh vực thay thế thức ăn thủy sản.
Nhiều tiềm năng cho sản xuất protein thay thế trong thức ăn thủy sản
Sau khi thu hút được nguồn tài trợ mới đáng kể, Enifer và Kuehnle Biosciences đang hướng tới việc đóng vai trò lớn hơn trong lĩnh vực thay thế thức ăn thủy sản.
Đó thực sự là một tình huống con gà và quả trứng; bạn cần đầu tư để có thể đạt được quy mô, nhưng để có được khoản đầu tư đó, bạn phải thể hiện sự hứa hẹn về những gì bạn đang tạo ra.
Espoo, Enifer có trụ sở tại Phần Lan, một công ty công nghệ sinh học tập trung sản xuất sản phẩm protein dựa trên nấm PEKILO cho thức ăn thủy sản và các mục đích sử dụng khác, gần đây đã nhận được khoản đầu tư 36 triệu EUR (33,5 triệu USD), bao gồm cả chuỗi 15 triệu EUR (14 triệu USD) Vòng cấp vốn cổ phần B với sự tham gia của Quỹ Công nghiệp sinh học Taaleri I, Nordic Foodtech VC, Voima Ventures, Valio và Laine Holding. Enifer cũng nhận được khoản đầu tư 7 triệu EUR (6,5 triệu USD) từ Quỹ Khí hậu Phần Lan và khoản vay về môi trường và khí hậu 2 triệu EUR (1,9 triệu USD) từ Finnvea. Kết hợp với khoản tài trợ 12 triệu EUR (11,2 triệu USD) trước đây từ Business Finland, Enifer hiện đã huy động đủ để trang trải toàn bộ chi phí 33 triệu EUR (30,7 triệu USD) cho cơ sở mới của mình, sẽ được xây dựng tại Kirkkonummi, Phần Lan cuối năm 2025.
“Chúng tôi rất vui mừng được bắt đầu hợp tác với Enifer,” Giám đốc điều hành lĩnh vực công nghiệp sinh học Taaleri Tero Saarno. “Chúng tôi tin rằng nhu cầu về protein thay thế ngày càng tăng khi dân số toàn cầu tăng lên. Nhu cầu cũng được hỗ trợ trên toàn cầu bởi những cân nhắc về môi trường và đạo đức. Khoản đầu tư của Quỹ Công nghiệp sinh học Taaleri cho phép sản xuất ở quy mô thương mại. Chúng tôi tin tưởng vào cơ hội mở rộng của Enifer.”
Đồng sáng lập và Giám đốc điều hành Enifer Simo Ellilä cho biết thị trường thức ăn thủy sản là mục tiêu chính của công ty vì sinh vật dưới nước kén ăn hơn lợn và gà, khiến nguyên liệu thức ăn của chúng trở nên cao cấp trên thị trường. Các thử nghiệm gần đây về sản phẩm này trên cá hồi, cá hồi trout và tôm của các nhà nghiên cứu Na Uy, dẫn đầu bởi Margareth Overland tại Đại học NBMU, đã cho thấy những cải thiện rõ rệt về sức khỏe và tăng trưởng.
Ellilä cho biết, Mycoprotein là thành phần còn thiếu để tạo nên chuỗi thức ăn bền vững hơn. “Cơ sở ở Kantvik đóng vai trò là bước đệm quan trọng trên con đường biến mycoprotein trở thành nền tảng cung cấp protein, với một số nhà máy trong tương lai đã được lên kế hoạch”.
Nhà máy mới của Enifer, dự kiến có công suất sản xuất 3.000 tấn hàng năm khi hoàn thành, sẽ là liên doanh thương mại đầu tiên trên thế giới sản xuất mycoprotein từ chất thải nguyên liệu thô của ngành công nghiệp thực phẩm đã được tái chế. Công ty đang nộp đơn xin danh sách thành phần Novel Foods của Ủy ban Châu Âu để cho phép nó được đưa vào các sản phẩm dành cho người tiêu dùng và dự kiến sẽ nhận được sự chấp thuận vào năm 2026.
“ Đây sẽ là cái mà chúng tôi gọi là nhà máy quy mô trung bình, nhưng một khi chúng tôi nhận được sự chấp thuận đó, chúng tôi hy vọng sẽ trở thành một nhà máy thương mại có lợi nhuận trong ứng dụng đó,” Ellilä nói. “ Nhà máy phục vụ thêm hai mục đích quan trọng. Một là đóng vai trò trình diễn kỹ thuật chung cho quy trình của chúng tôi… để giúp chúng tôi theo đuổi mục tiêu xây dựng một số nhà máy thức ăn chăn nuôi chuyên dụng. Cách còn lại là thử nghiệm các sản phẩm phụ khác, chẳng hạn như từ ngành công nghiệp bột giấy và nhiên liệu sinh học, vốn có khối lượng phụ rất lớn, để cấp phép cho công nghệ của chúng tôi hoặc hợp tác với nhau như một liên doanh để xây dựng một nhà máy. Họ có thể đến xem nhà máy và hoạt động xử lý, điều đó sẽ xác nhận rằng giải pháp này hoạt động hiệu quả.”
Ellilä cho biết ông không biết có công ty nào khác đang làm công việc tương tự như Enifer, đồng thời nói thêm rằng công ty hy vọng sẽ sản xuất “khối lượng rất đáng kể” phụ gia thức ăn thủy sản trong khung thời gian 5 năm.
Ông nói: “Chúng tôi chắc chắn là công ty đầu tiên xây dựng cơ sở ở quy mô này và không có gì ngăn cản chúng tôi mở rộng quy mô ngoài việc đầu tư để xây dựng các nhà máy”. “Đó là những gì chúng tôi hy vọng đạt được trong vài năm tới.”
Ellilä cho biết ông hy vọng có thể tạo dựng mối quan hệ đối tác với các công ty thức ăn thủy sản hoặc nuôi trồng thủy sản để hỗ trợ quá trình mở rộng quy mô.
Ông nói: “Chúng tôi đã thảo luận với ngành nuôi trồng thủy sản ngay từ đầu. “Thị trường nuôi trồng thủy sản bị định giá rất cao và tỷ suất lợi nhuận rất thấp. Vì vậy, không có vẻ như họ có nhiều lợi nhuận để chi tiêu vào các nguyên liệu đắt tiền, nhưng tôi nghĩ các công ty nuôi trồng thủy sản sẵn sàng tham gia.
Xuất khẩu thủy sản của Ấn Độ đạt mức cao kỷ lục trong năm tài chính 2023-2024
Ấn Độ đã xuất khẩu 1.781,602 tấn thủy sản, trị giá 7,38 tỷ USD trong năm tài chính 2023-2024, trong đó, tôm đông lạnh vẫn đứng đầu trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu.
Chính phủ Ấn Độ vừa cho biết xuất khẩu thủy sản của nước này trong năm tài chính 2023-2024 đạt mức cao kỷ lục về khối lượng, mặc dù phải đối phó với nhiều thách thức.
Ấn Độ đã xuất khẩu 1.781,602 tấn hải sản trị giá 7,38 tỷ USD trong năm tài chính 2023-2024. Xuất khẩu thủy sản tăng 2,67% về khối lượng, nhưng lại giảm 8,77% về giá trị.
Tôm đông lạnh vẫn đứng đầu trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu thủy sản của Ấn Độ, chiếm 40,19% tổng khối lượng và 66,12% tổng kim ngạch.
Hiện, Mỹ và Trung Quốc là những nhà nhập khẩu thủy sản lớn của Ấn Độ.
Trong một thông tin có liên quan, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s mới đây đã dự báo nền kinh tế Ấn Độ ước tăng trưởng 6,8% trong năm nay, tiếp theo là 6,5% vào năm 2025, nhờ sự mở rộng kinh tế mạnh mẽ cùng với tính liên tục của chính sách sau bầu cử.
GDP thực tế của Ấn Độ năm 2023 tăng 7,7%, cao hơn mức tăng 6,5% năm 2022, nhờ chi tiêu vốn của chính phủ và hoạt động sản xuất tăng mạnh.
Hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nông sản Việt Nam
Hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là gạo và rau quả hiện đang có nhiều thuận lợi về thị trường.
Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam tháng và 5 tháng đầu năm 2024
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan vừa công bố, trong 5 tháng đầu năm xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt gần 4,03 triệu tấn, thu về 2,56 tỷ USD. Trong đó, Philippines và Indonesia là 2 khách hàng lớn nhất của gạo Việt Nam ở thị trường Đông Nam Á.
Theo Tổng cục Hải quan, tháng 5 cả nước xuất khẩu 856,000 tấn gạo, giảm 14,6% so với tháng trước, nâng tổng lượng gạo xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2024 đạt 4,03 triệu tấn, tăng 11,2% và trị giá đạt 2,56 tỷ USD, tăng 33,6% so với cùng kỳ năm trước.
Các thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2024
Về thị trường, gạo của Việt Nam chủ yếu được xuất sang thị trường ASEAN với 2,96 triệu tấn, chiếm 73% tổng lượng gạo của cả nước và tăng 36% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, xuất khẩu sang Philippines đạt 1,83 triệu tấn, tăng 19,6%; Indonesia đạt 677 nghìn tấn, tăng 83,4%; Malaysia đạt 338 nghìn tấn, tăng 82,5%.
Tuy nhiên, trái với đà tăng cao ở các thị trường ASEAN, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc giảm mạnh khi chỉ đạt 203 nghìn tấn, giảm 67,8% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ông Nguyễn Ngọc Nam, Chủ tịch Hiệp hội lương thực Việt Nam, gạo Việt Nam cũng tập trung vào thị trường lớn như Phipinnies, Trung Quốc, Indonesia…Trong 5 tháng đầu năm, giá gạo trong nước tăng hơn so với cùng kỳ, đảm bảo hiệu quả bà con nông dân, người trồng lúa.
Dự báo, xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2024 sẽ khởi sắc khi các thị trường lớn tăng khối lượng nhập khẩu. “Các nước đang nghe ngóng xem Ấn Độ có dỡ bỏ hạn chế xuất khẩu cấm xuất khẩu gạo do Elnino, khả năng đến tháng 9 chưa dỡ bỏ, đây là cơ hội cho Việt Nam”, ông Nguyễn Ngọc Nam cho biết.
Xuất khẩu rau quả của Việt Nam tăng trưởng trong 5 tháng đầu năm 2024
Số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho thấy, trị giá xuất khẩu hàng rau quả của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2024 đạt 2,65 tỉ USD, tăng 31,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu rau quả tiếp tục thuận lợi, nhờ nhu cầu tăng tại thị trường truyền thống như Trung Quốc, các thị trường tiềm năng như Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản…
Trị giá xuất khẩu hàng rau quả Việt Nam sang các thị trường này đều ghi nhận tốc độ tăng trưởng tích cực.
Dẫn đầu là thị trường Trung Quốc với trị giá 1,7 tỉ USD, tăng 33,4%. Hiện nay, Việt Nam đã xuất khẩu chính ngạch 11 mặt hàng rau, quả vào Trung Quốc như sầu riêng, chuối tươi, dưa hấu, măng cụt…
Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc, với trị giá 135,9 triệu USD, tăng 57,9%.
Dự kiến, năm nay nhập khẩu trái cây đông lạnh của Hàn Quốc sẽ tăng hơn do quốc gia này giảm hoặc miễn thuế đối với trái cây nước ngoài để ổn định giá trong nước.
Đối với thị trường Mỹ, 5 tháng đầu năm 2024, trị giá xuất khẩu rau quả Việt Nam sang thị trường này đạt 123,5 triệu USD, tăng 32,4%.
Với nhu cầu nhập khẩu rau quả lớn thứ 2 thế giới, Mỹ được đánh giá là thị trường tiềm năng của Việt Nam.
Tuy nhiên, để đưa sản phẩm vào thị trường này, doanh nghiệp Việt cần nâng cao giá trị gia tăng theo hướng bổ sung sản phẩm chế biến, chẳng hạn như trái cây khô, bột trái cây, sản phẩm đóng hộp để có thể tiêu thụ quanh năm, đồng thời ứng dụng công nghệ mới đưa trái cây vào trạng thái ngủ đông, bảo quản tế bào sống, sử dụng chế phẩm sinh học, màng bọc, chất bảo quản được phép…
Philippines quyết định giảm thuế nhập khẩu gạo
Tổng thống Philippines Ferdinand R. Marcos, JR., ngày 20 tháng 6 năm 2024, trên cơ sở thẩm quyền được trao theo quy định của pháp luật và căn cứ đề xuất của các cơ quan liên quan, đã ban hành Sắc lệnh số 62, theo đó sẽ cắt giảm thuế nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng. Đối với mặt hàng gạo, thuế nhập khẩu từ mức 35% sẽ cắt giảm xuống còn 15%, thời gian áp dụng tới năm 2028.
Đây có thể được coi là động thái mới nhất của Chính phủ Philippines nhằm đối phó với tình trạng lạm phát, đặc biệt là giá mặt hàng gạo có xu hướng tăng cao liên tục trên thị trường kể từ đầu năm tới nay. Trong quý I/2024, tình hình kinh tế Philippines tương đối ổn định, ngoại trừ sự tăng giá của một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, đặc biệt là mặt hàng gạo, với mức tăng trong quý I/2024 vào khoảng 24,4%. Giá gạo chiếm mức khoảng 9% trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI – Consumer Price Index) của Philippines.
Mức giá bán lẻ một số mặt hàng gạo tại Philippines thời điểm tháng 9/2022 (giá bán lẻ thời điểm hiện tại đã tăng lên 54 – 60 pesos/kg)
Thời điểm có hiệu lực của Sắc lệnh số 62 là 30 ngày kể từ ngày đăng công báo, đối với thuế nhập khẩu gạo, thời điểm áp dụng là sau 15 ngày kể từ ngày đăng công báo. Như vậy, thời điểm áp dụng mức thuế nhập khẩu gạo mới của Philippines dự kiến vào đầu tháng 8 năm 2024.
Trong những năm qua, Việt Nam luôn là đối tác xuất khẩu gạo lớn nhất, luôn chiếm trên 80% tổng lượng gạo nhập khẩu vào thị trường Philippines. Có một số ý kiến cho rằng việc Philippines cắt giảm thuế nhập khẩu gạo sẽ tạo thêm thuận lợi và gia tăng cơ hội cho gạo Việt Nam tại thị trường Philippines.
TT TT Cn & TM