Xuất khẩu gạo sang các thị trường năm 2023

Năm 2023 cả nước xuất khẩu gần 8,13 triệu tấn gạo, tương đương gần 4,68 tỷ USD, tăng 14,4% về khối lượng, tăng 35,4% về kim ngạch so với năm 2022.

 

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 12/2023 cả nước xuất khẩu 492.387 tấn gạo, tương đương 338,67 triệu USD, giá trung bình 687,8 USD/tấn, giảm 18% về lượng, giảm 15,4% về kim ngạch nhưng tăng 3,2% về giá so với tháng 11/2023; so với tháng 12/2022 thì tăng13,3% về lượng, tăng 53,8% kim ngạch và tăng 35,7% về giá.

Trong tháng 12/2023 xuất khẩu gạo sang thị trường chủ đạo Philippines tiếp tục tăng 6,4% về lượng và tăng 7,8% về kim ngạch, tăng 1,3% về giá so với tháng 11/2023, đạt 260.692 tấn, tương đương 179,67 triệu USD, giá 689,2 USD/tấn; so với tháng 12/2022 thì tăng 20,6% về lượng, tăng 74,4% kim ngạch và tăng 44,6% về giá. Xuất khẩu gạo sang thị trường Indonesia tháng 12/2023 giảm mạnh 61,2% về lượng và giảm 63,3% kim ngạch và giảm 5,4% về giá so với tháng 11/2023, đạt 42.467 tấn, tương đương 25,58 triệu USD; so với tháng 12/2022 thì cũng giảm16,2% về lượng, nhưng tăng 3,2% kim ngạch và tăng 23% về giá.

Đáng chú ý là xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc tháng 12/2023 tăng rất mạnh trên 85% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 11/2023, đạt 21.630 tấn, tương đương 12,99 triệu USD; so với tháng 12/2022 thì giảm rất mạnh 49,7% về lượng, giảm 45,5% kim ngạch.

Tính chung cả năm 2023 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt trên 8,13 triệu tấn, tương đương gần 4,68 tỷ USD, tăng 14,4% về khối lượng, tăng 35,4% về kim ngạch so với năm 2022, giá trung bình đạt 575 USD/tấn, tăng 18,3%.

Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 38,6% trong tổng lượng và chiếm 37,5% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt trên 3,13 triệu tấn, tương đương trên1,75 tỷ USD, giá trung bình 559,4 USD/tấn, giảm 2,5% về lượng, nhưng tăng 17,6% về kim ngạch và tăng 20,6% về giá so với năm 2022.

Tiếp sau đó là thị trường Indonesia chiếm trên 14,3% trong tổng lượng và chiếm 13,7% trong tổng kim ngạch, đạt trên 1,17 triệu tấn, tương đương 640,25 triệu USD, giá trung bình 549,2 USD/tấn, tăng mạnh 878% về lượng và tăng 992% kim ngạch; giá tăng 11,7% so với năm 2022.

Thị trường Trung Quốc đứng thứ 3 đạt 917.255 tấn, tương đương 530,61 triệu USD, giá 578,5 USD/tấn, tăng 7,8% về lượng, tăng 22,7% kim ngạch và tăng 13,9% về giá so với năm 2022, chiếm gần trên 11% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.

Xuất khẩu sang các thị trường FTA RCEP đạt trên 5,79 triệu tấn, tương đương 3,24 tỷ USD, tăng 21,5% về lượng, tăng 43,2% kim ngạch. Xuất khẩu sang các thị trường FTA CPTTP đạt 574.813 tấn, tương đương 317,78 triệu USD, giảm 0,7% về lượng, tăng 13,4% kim ngạch. Xuất khẩu sang thị trường Đông Nam Á đạt gần 4,83 triệu tấn, tương đương 2,68 tỷ USD, tăng 24,6% về lượng, tăng 48,4% kim ngạch.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, sản lượng lúa cả nước năm 2023 đạt 43,5 triệu tấn, tăng 1,9%, do diện tích tăng 10.600ha (tăng 0,1%) và năng suất đạt 61 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha (tăng 1,7%). Với sản lượng trên đã áp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước, chế biến, làm thức ăn chăn nuôi và xuất khẩu gạo cao kỷ lục gần 8,3 triệu tấn.

Nhờ đó, giá trị xuất khẩu gạo đã đạt kỷ lục với 4,78 tỷ USD, tăng 38,4% so với năm 2022. Năm 2024, với diện tích 7,1 triệu ha gieo cấy, ngành nông nghiệp sẽ thâm canh tăng năng suất để sản lượng lúa đạt từ 43-43,5 triệu tấn.

Theo các chuyên gia, nguồn cung vẫn ở mức thấp và dự đoán nhu cầu đối với gạo Việt Nam sẽ mạnh trong năm nay, đặc biệt là từ Philippines và Trung Quốc. Trong khi đó, giá gạo đồ xuất khẩu từ Ấn Độ tuần này đã tăng lên mức cao nhất trong hơn hai tháng giữa bối cảnh giá gạo tại các quốc gia xuất khẩu gạo lớn khác cũng đồng loạt đi lên, do nhu cầu cải thiện trong lúc nguồn cung hạn chế.

Giá gạo tại Án Độ vẫn ở mức cao bất chấp lệnh hạn chế xuất khẩu. Nguồn cung tại các thị trường đã bắt đầu chững lại do sản lượng thấp hơn. Chính phủ Ấn Độ đã thu mua 46,39 triệu tấn thóc trong năm 2023, giảm so với mức 53,4 triệu tấn của năm trước.

Xuất khẩu gạo năm 2023

(Tính toán từ số liệu công bố ngày 14/1/2024 của TCHQ)

 

Tháng 11/2023: Brazil mua nhiều cá tra Việt Nam nhất từ đầu năm

Brazil là thị trường đơn lẻ thứ 3 tiêu thụ nhiều nhất cá tra Việt Nam. Việt Nam vẫn là nhà cung cấp cá thịt trắng (chủ yếu là cá tra) cho Brazil trong suốt nhiều năm.

Tháng 11/2023, giá trị XK cá tra Việt Nam sang Brazil đạt gần 14 triệu USD, tăng 81% so với cùng kỳ năm 2022. Tháng 11/2023 là tháng XK các sản phẩm cá tra sang quốc gia Mỹ Latinh này đạt giá trị cao nhất, và tăng trưởng cao nhất kể từ tháng 2/2022. Đây cũng là tháng thứ 5 liên tiếp trong năm 2023, thị trường này ghi nhận tăng trưởng dương về NK cá tra.

11 tháng đầu năm 2023, Brazil đã tiêu thụ hơn 97 triệu USD cá tra từ Việt Nam, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2022. Khác với nhiều thị trường khác, quốc gia Mỹ Latinh này chỉ NK các sản phẩm cá tra phile đông lạnh từ Việt Nam.

Xu hướng tại quốc gia này đang thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết khi giá FOB trung bình XK và khối lượng XK tiếp tục đi theo 2 hướng ngược nhau. Theo số liệu mới nhất, giá trung bình XK cá tra Việt Nam sang Brazil tháng 10/2023 mặc dù có tăng nhẹ so với tháng trước đó, nhưng vẫn duy trì dưới mức 3 USD/kg, tiếp tục giảm 16% so với cùng kỳ năm 2022. Năm 2023 có thể coi là năm khó khăn của toàn ngành cá tra khi hầu hết giá XK sang các thị trường đều giảm. Brazil cũng không phải là ngoại lệ, giá mặc dù giảm nhưng so với thời điểm giữa năm 2019 đến đầu năm 2023, đây vẫn là mức giá có thể chấp nhận được.

Ngược lại, khối lượng XK cá tra Việt Nam sang quốc gia này lại có xu hướng tăng liên tục kể từ tháng 6/2023. Nhờ đó mà giá trị XK vẫn tăng trưởng dương, bất chấp giá FOB trung bình XK liên tiếp sụt giảm. Tháng 10/2023, Việt Nam XK gần 3000 tấn cá tra sang Brazil. Nhu cầu tiêu thụ cá tra Việt Nam tại Brazil vẫn duy trì mức ổn định và có phần tăng so với các thị trường khác trong bối cảnh sụt giảm chung.

Theo số liệu của Trung tâm Thương mại Thế giới (ITC), Việt Nam vẫn là nhà cung cấp cá thịt trắng (chủ yếu là cá tra) hàng đầu cho Brazil. Tuy nhiên, cá tra Việt Nam đang dần phải cạnh tranh với không chỉ các nước đang bắt tay vào việc nuôi loài cá này, mà còn phải cạnh tranh với 1 số loại cá thịt trắng khác như cá tuyết hake (mã HS 030474) hay cá tuyết cod (mã HS 030363).

Tháng 112023 Brazil mua nhiều cá tra Việt Nam nhất từ đầu năm

Brazil là một trong những thị trường quan trọng của cá tra Việt Nam. Tăng trưởng XK sang thị trường này trong năm 2023 sẽ là động lực cho các DN XK của Việt Nam nắm bắt cơ hội thị trường để đẩy mạnh XK cá tra Việt Nam sang quốc gia đang ngày càng nhiều tầng lớp trung lưu này.

 

Thị trường xuất khẩu phân bón năm 2023

Năm 2023 cả nước xuất khẩu gần 1,55 triệu tấn phân bón các loại, tương đương 648,9 triệu USD, giá trung bình 419,6 USD/tấn.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong năm 2023 cả nước xuất khẩu gần 1,55 triệu tấn phân bón các loại, tương đương 648,9 triệu USD, giá trung bình 419,6 USD/tấn, giảm 11,7% về khối lượng, giảm 40,7% về kim ngạch và giảm 32,9% về giá so với năm 2022.

Riêng tháng 12/2023 xuất khẩu 162.921 tấn phân bón các loại, đạt 71,41 triệu USD, giá 438,3 USD/tấn, tăng 93,5% về khối lượng, tăng 90,4% kim ngạch nhưng giảm 1,6% về giá so với tháng 11/2023; So với tháng 12/2022 cũng tăng 23,5% về lượng, tăng 10% kim ngạch nhưng giảm 10,8% về giá.

Phân bón của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Campuchia, riêng thị trường này đã chiếm 38% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước, đạt 584.929 tấn, tương đương 246,69 triệu USD, giá trung bình 421,7 USD/tấn, tăng 20,9% về lượng nhưng giảm 3,2% kim ngạch và giá giảm 19,9% so với cùng kỳ năm 2022. Riêng tháng 12/2023 xuất khẩu sang thị trường này đạt 89.467 tấn, tương đương 38,5 triệu USD, giá trung bình 430,3 USD/tấn, tăng 225% về lượng, tăng 227% kim ngạch, giá 16,2% so với tháng 11/2023.

Đứng sau thị trường chủ đạo Campuchia là thị trường Hàn Quốc đạt 89.297 tấn, tương đương 35,03 triệu USD, giá trung bình 392,3 USD/tấn, tăng 0,12% về lượng, giảm 46,8% kim ngạch và giảm 46,6% về giá, chiếm 5,8% trong tổng khối lượng và chiếm 5,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước.

Xuất khẩu sang thị trường Malaysia đạt 97.250 tấn, tương đương 33,78 triệu USD, giá trung bình 347,3 USD/tấn, giảm mạnh 22,8% về lượng, giảm 48,3% kim ngạch và giá giảm 33%, chiếm 6,3% trong tổng khối lượng và chiếm 5,2% trong tổng kim ngạch.

Xuất khẩu sang các thị trường FTA RCEP đạt 954.207 tấn, tương đương 398,93 triệu USD, tăng 0,94% về lượng, giảm 28,5% kim ngạch. Xuất khẩu sang các thị trường FTA CPTTP đạt 106.768 tấn, tương đương 37,9 triệu USD, giảm 28,6% về lượng, giảm 53,4% kim ngạch. Xuất khẩu sang thị trường Đông Nam Á đạt 855.392 tấn, tương đương 359,77 triệu USD, tăng 2,7% về lượng, giảm 24,4% kim ngạch.

Xuất khẩu phân bón năm 2023

(Tính toán từ số liệu công bố ngày 14/1/2024 của TCHQ)

 

Xuất khẩu thịt lợn của Mỹ đạt mức cao nhất kể từ giữa năm 2021

Theo số liệu của USDA và Liên đoàn Xuất khẩu Thịt Mỹ (USMEF), xuất khẩu thịt lợn của Mỹ tháng 11/2023 đạt giá trị cao nhất kể từ giữa năm 2021 do xuất khẩu sang Mexico, Trung Mỹ và Colombia đạt kỷ lục.

Khối lượng thịt lợn xuất khẩu của Mỹ tháng 11/2023 đạt 258.601 tấn, tăng 5% so với tháng 11/2022 và cao nhất trong sáu tháng, kim ngạch xuất khẩu tăng 2% lên 737,4 triệu USD, cao nhất kể từ tháng 5/2021 và cao thứ bảy từ trước đến nay. Tính chung 11 tháng năm 2023, xuất khẩu đạt tổng cộng 2,64 triệu tấn, trị giá 7,39 tỷ USD, tăng 8% về khối lượng và tăng 5% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước.

Xuất khẩu thịt lợn nhiều nhất sang thị trường Mexico trong tháng 11/2023 đạt kỷ lục 221,3 triệu USD, tăng 5% so với tháng 11/2022. Khối lượng xuất khẩu đạt 100.313 tấn, tăng 14% và là mức lớn thứ hai tính theo tháng, chỉ sau tháng 10/2023. Xuất khẩu thịt lợn sang thị trường Mexico tăng 84%.

Xuất khẩu thịt lợn sang thị trường Trung Mỹ trong tháng 11 đã lập kỷ lục về khối lượng và giá trị, do xuất khẩu sang Honduras, Guatemala và El Salvador tăng trưởng mạnh, khối lượng tăng 35% so với cùng kỳ năm trước lên 16.565 tấn, giá trị tăng 37% lên 51,3 triệu USD.

Xuất khẩu thịt lợn sang thị trường Colombia tháng 11/2023 lập kỷ lục về giá trị đạt mức 34,3 triệu USD, tăng 59% so với cùng kỳ năm trước, trong khi khối lượng lớn thứ hai đạt mức 12.148 tấn (tăng 46%). Xuất khẩu sang Colombia đạt kỷ lục và tăng trưởng mạnh mẽ ở Chile và Peru đã đẩy xuất khẩu thịt lợn tháng 11 sang Nam Mỹ lên mức cao nhất trong hai năm, khối lượng tăng 55% so với cùng kỳ năm trước lên 15.056 tấn, lớn thứ sáu từ trước đến nay, trong khi giá trị tăng 58% lên 43,2 triệu USD, cao thứ ba từ trước đến nay. Xuất khẩu sang Chile cao nhất trong 11 năm và xuất khẩu sang Peru cao nhất kể từ tháng 6/2023.

Mặc dù xuất khẩu thịt lợn trong tháng 11/2023 sang Cộng hòa Dominica giảm nhẹ so với tháng 11/2022, nhưng mức xuất khẩu hàng tháng vẫn vượt 10.000 tấn lần thứ năm.

Tháng 11/2023 xuất khẩu thịt lợn sang Hàn Quốc tăng 19% so với tháng 11/2022 lên 17.406 tấn, trong khi giá trị tăng 18% lên 57,7 triệu USD. Xuất khẩu thịt lợn Mỹ sang Hàn Quốc tăng từ 26% lên 32% do xuất khẩu Liên minh Châu Âu giảm.

Xuất khẩu thịt lợn sang Australia đã phục hồi ấn tượng trong năm 2023; riêng tháng 11/2023 xuất khẩu tăng gần gấp ba so với tháng 11/2022 lên 6.414 tấn (tăng 186%), trong khi giá trị tăng 128% lên 23,3 triệu USD.

Xuất khẩu thịt lợn sang Nhật Bản tháng 11/2023 tương đương tháng 11/2022 đạt mức 26.890 tấn, trong khi giá trị tăng nhẹ lên 111,6 triệu USD.

Xuất khẩu thịt lợn sang Trung Quốc/Hồng Kông, chủ yếu là nội tạng trong tháng 11/2023 có xu hướng giảm mạnh, dẫn đến tổng lượng xuất khẩu 11 tháng giảm 4% so với cùng kỳ năm trước đạt mức 466.511 tấn, trong khi giá trị giảm 6% xuống 1,18 tỷ USD. 

TT TT CN & TM