Ấn Độ, Pakistan và Sri Lanka chiếm phần lớn mức điều chỉnh giảm. Dự báo tiêu thụ nội địa ở Ấn Độ sẽ là 109,0 triệu tấn, vẫn là mức cao thứ hai được ghi nhận trong lịch sử. Dự báo tiêu thụ nội địa của Pakistan và Sri Lanka cũng được điều chỉnh giảm, chủ yếu do sản lượng giảm. Ngược lại, dự báo tiêu thụ nội địa niên vụ 2022/23 sẽ tăng ít nhất 100.000 tấn ở Angola, Campuchia và Indonesia.
Triển vọng cung – cầu gạo thế giới năm 2022/23
Trong báo cáo tháng 11/2022, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) hạ dự báo về sản lượng gạo thế giới năm 2022/23 do sản lượng giảm ở Nigeria, Pakistan, Sri Lanka, Mỹ và Việt Nam.
Theo đó, sản lượng gạo thế giới sẽ giảm 1,35 triệu tấn, xuống 503,7 triệu tấn (quy xay xát), thấp hơn 2% so với dự bao tháng trước và cũng giảm so với năm trước, là năm giảm đầu tiên kể từ vụ 2015/16. Đó sẽ là mức sản xuất thấp nhất kể từ năm 2019/20. Việc hạ dự báo so với tháng trước là do sản lượng giảm ở El Salvador, Campuchia, Nigeria, Pakistan, Sri Lanka, Mỹ và Việt Nam không được bù đắp hoàn toàn bởi dự báo sản lượng tăng cho Ghana, Hàn Quốc và Mali.
Những điều chỉnh sản lượng như trên kết hợp với ước tính lượng hàng tồn kho toàn cầu giảm dẫn đến dự báo tổng nguồn cung toàn cầu niên vụ 2022/23 giảm 2,5 triệu tấn xuống còn 686,8 triệu tấn, thấp hơn 2% so với cùng kỳ năm trước và là mức thấp nhất kể từ niên vụ 2019/20. Đây là lần đầu tiên nguồn cung gạo toàn cầu giảm kể từ vụ 2004/05.
So với năm trước, sản lượng của Ấn Độ - quốc gia sản xuất gạo lớn thứ hai trên thế giới - chiếm phần lớn sự sụt giảm sản lượng toàn cầu, với sản lượng dự kiến sẽ giảm 6,3 triệu tấn xuống còn 124,0 triệu tấn. Nhà sản xuất số một thế giới - Trung Quốc - dự kiến sẽ sản xuất 147,0 triệu tấn, giảm 2,0 triệu tấn so với kỷ lục của niên vụ 2021/22. Sản lượng trong niên vụ 2022/23 của Pakistan dự kiến giảm 2,5 triệu tấn, và của Mỹ dự kiến giảm gần 0,9 triệu tấn. Ngoài ra, sản lượng gạo năm 2022/23 dự kiến sẽ giảm ít nhất 100.000 tấn ở các thị trường: Bangladesh, Liên minh châu Âu, Ghana, Nhật Bản, Nepal, Nigeria, Philippines, Sri Lanka và Tanzania.
Ngược lại, sản lượng năm 2022/23 dự kiến sẽ tăng ít nhất 100.000 tấn so với một năm trước ở Myanmar, Campuchia, Ai Cập, Indonesia, Iran, Mali, Thái Lan và Việt Nam. Vụ mùa của Ai Cập được dự đoán sẽ đạt mức tăng lớn nhất, tăng 0,7 triệu tấn lên 3,6 triệu tấn dựa trên diện tích thu hoạch lớn hơn và năng suất dự kiến cao hơn. Campuchia dự kiến sẽ thu hoạch một vụ mùa kỷ lục vào năm 2022/23.
Dự báo mức tiêu thụ gạo toàn cầu niên vụ 2022/23 trong báo cáo tháng 11 được điều chỉnh giảm 0,3 triệu tấn xuống còn 517,8 triệu, giảm 2,1 triệu tấn so với mức kỷ lục của năm trước. Ấn Độ, Pakistan và Sri Lanka chiếm phần lớn mức điều chỉnh giảm. Dự báo tiêu thụ nội địa ở Ấn Độ sẽ là 109,0 triệu tấn, vẫn là mức cao thứ hai được ghi nhận trong lịch sử. Dự báo tiêu thụ nội địa của Pakistan và Sri Lanka cũng được điều chỉnh giảm, chủ yếu do sản lượng giảm. Ngược lại, dự báo tiêu thụ nội địa niên vụ 2022/23 sẽ tăng ít nhất 100.000 tấn ở Angola, Campuchia và Indonesia.
USDA dự báo tồn trữ gạo thế giới cuối vụ 2022/23 giảm 2,2 triệu tấn xuống 169,0 triệu tấn, thấp hơn 8% so với một năm trước và là năm giảm thứ hai liên tiếp. Đó sẽ là mức tồn trữ cuối vụ thấp nhất kể từ niên vụ 2017/18. Ấn Độ sẽ chiếm phần lớn mức điều chỉnh giảm tồn trữ gạo toàn cầu, chủ yếu do gia tăng xuất khẩu. Tồn trữ cuối vụ 2022/23 của Ấn Độ dự đoán là 29,5 triệu tấn, giảm 1,25 triệu tấn so với dự báo tháng 10 và thấp hơn 13% so với ước tính hồi đầu năm. Tồn trữ cuối vụ 2022/23 của Indonesia dự báo giảm 0,5 triệu tấn xuống còn 2,5 triệu tấn, - kết quả của việc gia tăng sử dụng gạo sản xuất trong nước và lượng dư cung tăng lên – thấp hơn 12% so với một năm trước và là mức nhỏ nhất kể từ năm 1993/94. Đây là năm thứ 5 liên tiếp tồn trữ của Indonesia giảm, do tiêu thụ vượt mức sản lượng. Tồn trữ cuối vụ của Sri Lanka dự kiến sẽ giảm 66% xuống còn 0,2 triệu tấn, chủ yếu do sản lượng giảm năm thứ 2 liên tiếp. Tồn trữ của Sri Lanka dự báo sẽ thấp nhất kể từ 2007/08.
Ngành tôm Ấn Độ chật vật trước tác động của lạm phát toàn cầu
Xuất khẩu thủy sản của Ấn Độ trong năm tài chính vừa qua đạt 7,76 tỷ USD (7,4 tỷ EUR) và dự kiến đạt 8,8 tỷ USD (8,4 tỷ EUR) trong năm tài chính hiện tại (kết thúc vào ngày 31/3/2023). Nhu cầu thấp hơn từ Hoa Kỳ và EU và những trở ngại tại thị trường Trung Quốc khiến Ấn Độ khó đạt được mục tiêu của mình.
Bên cạnh đó, các nhà xuất khẩu tôm Ấn Độ phải cạnh tranh khốc liệt với Ecuador, đặc biệt là ở thị trường Trung Quốc. Trước đây, Ấn Độ cung cấp khoảng 70% nhu cầu tôm của Trung Quốc. Nhưng Ecuador gần đây đã trở thành nhà cung cấp tôm hàng đầu của Trung Quốc, bất chấp các quy định nhập khẩu nghiêm ngặt liên quan đến Covid-19.
Ông Fofandi, Giám đốc điều hành công ty kinh doanh thủy sản DeepMala Group có trụ sở tại Ấn Độ, cho biết lạm phát toàn cầu, tồn kho tăng và hậu quả từ cuộc chiến Nga-Ukraine, bao gồm cả giá năng lượng cao hơn, đang ảnh hưởng nặng nề đến xuất khẩu thủy sản của Ấn Độ. Nhu cầu giảm từ 30% đến 35% và nếu cầu không tăng vào tháng 1, đó có thể là một điều tồi tệ. Giá tôm toàn cầu đã giảm từ 20 đến 25%, việc thiếu cầu sẽ còn làm cho giá giảm sâu hơn.
Giá tôm Ấn Độ giảm, khiến nhiều người nuôi có ý định bỏ ao. Tại Andhra Pradesh, bang sản xuất tôm hàng đầu của Ấn Độ, người nuôi được vận động không bỏ vụ nuôi sắp tới, luân canh, giảm mật độ thả nuôi, tăng cường nuôi tôm cỡ lớn. Các thành viên của Hiệp hội XK tôm Ấn Độ đã đồng ý mua tôm với giá cố định của chính phủ, hoặc 210 INR (2,55 USD, 2,43 EUR) cho 1 kg tôm loại 100 con và 380 INR (4,61 USD, 4,40 EUR) cho 1 kg tôm loại 30 con.
Sản lượng tôm của Ấn Độ dự kiến sẽ giảm xuống từ 650.000 đến 700.000 tấn trong năm tài chính hiện tại, giảm so với 850.000 tấn của năm trước.
Các nhà xuất khẩu Ấn Độ cho rằng giá mua thấp hơn là do dư cung tôm toàn cầu do sản lượng cao hơn từ Ecuador.
Xuất khẩu tôm Ấn Độ sang các thị trường quan trọng như Mỹ, EU và Trung Quốc giảm đang đánh mạnh vào ngành công nghiệp địa phương. Hơn nữa, nông dân địa phương đang phải đối phó với dịch bệnh bùng phát ở các trang trại nuôi tôm thẻ chân trắng, tỷ lệ sống của tôm sú thấp, giá thức ăn tăng và chất lượng con giống kém. Vì vậy, tình hình đang rất khó khăn cho Ấn Độ. TT T CN & TM